HỒ ĐÌNH NAM

 

HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG

VÀ VỤ THẢM SÁT TẾT MẬU THÂN HUẾ 1968

“Death is the time for the beginnings”

 

ĐẢNG VIÊN ĐẢNG CỘNG SẢN HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG LÀ AI?

Đầu năm 1960 Hoàng Phủ Ngọc Tường được bổ nhiệm về trường Quốc Học Huế sau khi tốt nghiệp khóa 1 ban Việt-Hán Đại Học Sư Phạm Sài Gòn. Với tuổi đời mới 23, Tường xuất hiện trước đám học trò 2 lớp đệ nhị Ban C, tại ngôi trường cũ mấy năm trước đây Tường vẫn hằng ngày cắp sách đến trường.

 

Tuổi trẻ lại con nhà nghèo, tuy nhà giáo nhưng Tường ăn vận cẩu thả, xuề xoà so với những giáo sư kỳ cựu của nhà trừơng luôn nghiêm cẩn trong phục sức. Trong giao tiếp cũng như đứng trước bảng đen Tường thường thể hiện sự dễ daĩ, thân mật, gần gủi với học sinh hơn những thầy giáo trộng tuổi nghiêm khắc luôn giữ khỏang cách cần thiết giữa thầy và trò như giáo sư Nguyễn văn Hai, Đinh Quy, Ngô Đốc Khánh (thân phụ của Ngô Vũ Bích Diễm, Ngô Vũ Dao Ánh, tình nhân của Trịnh Công Sơn). Dưới ánh mắt của phụ huynh học sinh và các đồng nghiệp, hiện thân của Tường đã phần nào gây khó chịu trong đời sống bình lặng ở một thành phố Huế cổ kính vốn coi trọng lễ nghĩa. Nhưng học trò trong giờ dạy Việt văn của Tường thì lại khác. Dường như các em nghe mê say nhà giáo Tường đang vung tay múa chân đem hết vốn liếng sự hiểu biết của mình qua những năm học Đại Học Sư Phạm Sài Gòn cùng những tác phẩm tây phương cổ điển và hiện sinh thời thượng mới du nhập vào Việt Nam, để Tường có cơ hội truyền đạt với học sinh tạo nên một không khí mới, một làn gió mới thay thế lối giảng daỵ cũ từ chương, buồn nản. Dạy trừơng Quốc Học được 1,2 năm sau, Tường được mời dạy Việt Văn trường Nữ Trung Học Đồng Khánh. Thời gian naỳ, Hiệu trửơng là bà Tịnh Nhơn, vợ thầy Giám Học trường Quốc Học Văn- Đình-Hy. Hiǹh ảnh cô học trò thông minh, học giỏi và có tiếng đẹp nhất Huế thời bấy giờ là D.M đã ăn sâu trong tâm tưởng của Tường (chuyện naỳ sẽ nhắc phần sau).

 

Trong thời gian dạy học, Tường có những người bạn khá thân thường vẫn giao thiệp với Tường như Trịnh Công Sơn,(lúc naỳ chưa nổi tiếng), nhà giáo dạy Pháp văn Bửu Ý, Đinh Cường (anh rể của tôi), Nguyễn Tuấn Khanh, (Họa sĩ Rừng, nhà văn Kinh Dương Vương). Trong giao tiếp với bạn bè, Hoàng Phủ Ngọc Tường chỉ thích nói chuyện về đề tài văn chương, nghệ thuật. Chưa một người nào ghi nhận Tường sẽ có ngày tham gia chính trị, nhất là theo Việt Cọng sau năm 1966.

 

Điều gì xảy ra trong đời Tường để tạo ra bước ngoặc naỳ?

 

Tường là con nhà nghèo lại đông anh, chị em, sống chui rúc trong căn nhà tranh vách đất kế nhà người cậu sở hữu ngôi biệt thự lộng lẩy với lối đi trong sân, trải sỏi trắng cùng những khóm hồng rực rỡ. Tại đây đã nảy sinh mối tình giữa Tường và cô gái con người cậu lúc cô âý đang học năm thứ nhất tại trừơng Đại Học Luật khoa Huế. Mối tiǹh đã phần nào gây tai tiếng nên cô ấy gia nhập ngành Cảnh Sát Quốc Gia học tại Hoc Viện Cảnh Sát tại Thủ Đức với nghạch Biên Tập Viên.( Hoàng Phủ Ngọc Tường  không hề ngăn cản quyết điṇh naỳ). Hai người đã trao đổi thư từ thường xuyên qua địa chỉ 9b đừơng Hoà Bình, Thành Nội Huế. Cũng tại căn nhà tranh vách đất naỳ, Tường đã đặt tên Tuyệt Tiǹh Cốc, nơi có buổi gặp mặt Thế Uyên, Trịnh Công Sơn, Trần Quang Long, Phan Chánh Dinh (Phan Duy Nhân), Hoàng Phủ Ngọc Phan và Túy Hồng (lúc này chưa lập gia đình với nhà văn Thanh Nam).

 

Cùng với Ngô Kha, Hoàng Phủ Ngọc Tường ngả theo phong trào Phật Giáo, phát xuất từ hai ngôi chùa Diệu Đế và Từ Đàm dưới sự thống trị của tu sĩ Trí Quang ra mặt chống đối chính phủ.

Tường và Ngô Kha, hai nhà giáo đã xách động học sinh, sinh viên xuống đừơng biểu tình. Chính quyền địa phương bỏ lơ, không cho là mối bận tâm nên không dẹp loạn, bắt bớ những phần tử gây rối naỳ có lẽ phần nào sợ Trung Ương khiển trách vì không chu toàn nhiệm vụ trong thời chiến (xem tham khảo bài “Họ Đã Sống Và Được Đối Xử Ra Sao” của Nguyễn Ước đăng trên Talawas.org).

 

Muà hè năm 1966 dưới sự chỉ đạo của Thích Trí Quang, các bàn thờ Phật được đem ra đường làm chứơng ngại vật cho các đơn vị quân đội dẹp loạn để đem lại trật tự cũ cho thành phố, nhất là trung ương sắp điều đơn vị Thủy Quân Lục Chiến ra Đà Nẵng và Huế. Tường với người em trai Hoàng Phủ Ngọc Phan bỏ gia đình thoát ly theo Việt Cọng cùng Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Đính( Trần Vàng Sao)…

 

Từ năm 1960 đến năm 1966 cuộc đời Hoàng Phủ Ngọc Tường vốn chỉ có vậy, người dân Huế không mấy ai quan tâm đến Hoàng Phủ Ngọc Tường nữa nếu không xảy ra biến cố thảm sát tết Mậu Thân năm 1968....

 

Đầu năm tết Mậu Thân, Hoàng Phủ Ngọc Phan đã xuất hiện cùng với Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Thị Đoan Trinh, (con gái Nguyễn Đóa, Chủ tịch Mặt trận Liên Minh Dăn Tộc, Dân Chủ và Hoà Bình) trên những con đừơng vắng lặng và thê lương, vai đeo súng dài, thắt lưng súng ngắn là hì̀nh ảnh đe dọa đến mạng sống của mỗi gia điǹh sau những cái chết thương tâm với bất cứ thành phần nào trong xã hội. Tin tức lan truyền nhanh chóng đến mọi người những cái chết oan nghiệt của Giáo Sư Trần Điền, Trần Mậu Tý, Nguyễn Văn Bińh, cha con hầu khoán TVK... trước sự hành quyết không nương tay dưới bàn tay đẫm máu của Nguyễn Đắc Xuân đến các gíáo sư bác sĩ người Đức, các vị Linh Mục, Thượng Tọa và số đông dân thường vô tội khác.

 

Lúc naỳ Hoàng Phủ Ngọc Tường ở đâu? Có về Huế không? Trừ những nhân vật tôi nêu tên phần trên, tôi không thấy có sự xuất hiện của Hoàng Phủ Ngọc Tường ở khu vực Thành Nội trong những ngaỳ đau thương, khủng khiếp đó.  Nhưng giọng nói của Hoàng Phủ Ngọc Tường, đúng là giọng của Tường, thì vang lên lời kêu gọi trình diện với “chính quyền cách mạng” được phát ra từ những chiếc loa được gắn trên xe Lam 3 bánh chạy xuôi ngược trên mọi nẻo đường. Trách nhiệm naỳ, Hoàng Phủ Ngọc Tường có chối bỏ được không khi nhiều người đã vì nhẹ dạ tin theo lời Tươǹg để ra đi không có ngaỳ trở lại.

 

Cái chết của hàng ngàn người dân Huế vô tội được tìm thấy trong những hố chôn tập thể trên đường tháo chạy của Bắc quân đã ra tay thảm sát, mãi về sau Hoàng Phủ Ngọc Tường vẫn khăng khăng cho đó là tội ác của "quân nổi dậy"(trong số đó có Hoàng Phủ NgọcTươǹg, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân) thực hiện vì căm thù.

 

Hoàng Phủ Ngọc Tường không đủ đảm lược để nói lên sự thật, không những vậy còn bao che khi thốt lên lời : “nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng”.

 

Hoàng Phủ Ngọc Tường có dịp là đấm ngực kêu trời về nỗi oan không dự phần vào tội ác tết Mậu Thân ở Huế, nhưng qua cuộc phỏng vấn do Burchette và nhà làm phim Richard Ellison và ký giả Karnow thực hiện trong "Việt Nam Một Thiên Sử Truyền Hình" (VN Television History) ngaỳ 29.2.82, Hoàng Phủ Ngọc Từơng đã nói gì?  Nhìn nét mặt lấc cấc và đôi mắt láo liên của Tường lúc đó tôi không làm sao tránh khỏi nỗi thất vọng và chán chường về một người quen cũ.

 

Trong một lần Hoàng Phủ Ngọc Tường được bà Thái Thị Kim Lan bảo lảnh qua nước Đức, Tường đã vận động với Đặng Tiến mong được bà Thụy Khuê dành cho một cuộc phỏng vấn qua đài RFI để bày tỏ nỗi oan. Một lần khác, người em của Từơng trả lời một cuộc phỏng vấn do tạp chí Sông Hương thực hiện, Hoàng Phủ Ngọc Phan đã nói như sau : “Cha tôi có lúc đã hỏi tôi : "cha nghe nói con và thằng Từơng khi về Huế trong tết Mậu Thân giết nhiều người lắm, phải không con"? Tôi đã trả lời : "Gia đình mình là một gia đình có văn hóa, nên con không giết người". (Nếu qủa tình Hoàng Phủ Ngọc Tường không có mặt ở Huế thì đây là cơ hội tốt nhất để Hoàng Phủ Ngọc Phan thanh minh thanh nga cho anh ruột mình để Tường khỏi nhọc lòng than thở : “Tết Mậu Thân đã trở thành bi kịch đời tôi”.

 

Đời sống tình cảm của Hoàng Phủ Ngọc Tường?

 

Tôi chưa từng thấy ai có những bất hạnh trên mức tưởng tượng như Hoàng Phủ Ngọc Tường. Người vợ đã từng ăn nằm công khai với Bưủ Chỉ trước mặt Hoang Phủ Ngọc Tường và xem thường dư luận ở Huế.

 

Qua Pháp nhờ nhà phê bình văn học Đặng Tiến dẩn đến nhà D.M, cô học trò của Tường ngày dạy Đồng Khánh để ngỏ lời cầu hôn trong lúc chưa ly thân vợ nhưng bị từ chối.

 

Bạn bè thì Tường bị Trịnh Công Sơn hất hủi sau vố Trịnh Công Sơn, là người vốn có thói ưa thân cận giới chức quyền của cả hai chế độ, chạy từ Sài Gòn ra Huế tưởng có thể trông cậy vào Hoàng Phủ Ngọc Tường sau ngaỳ 30.4.1975, nhưng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đưa Trịnh Công Sơn ra vùng Kinh Tế Mới để phá mìn, làm rẫy.

 

Với Bửu Ý, trong một lần hội họp tại Tỉnh Ủy Bình Trị Thiên khi nghe lời bợ đỡ của Hoàng Phủ Ngọc Tường với những cán bộ từ trong rưǹg phát biểu Bửu Ý đã mắ́ng Tường là thằng hèn và thằng liếm đít Việt Cọng ( vì tôn trọng sự thật nên xin lỗi độc giả tôi đành phải ghi lời nói không thanh cao) sau đó chấm dứt tiǹh bạn đến nỗi ngaỳ đám cưới, Bửu Ý cấm cửa không cho Hoàng Phủ Ngọc Tường đến dự.

 

Về văn tài của Hoàng Phủ Ngọc Tường?

Một số “nhà văn”, “nhà thơ”, “nhà phê bình văn học” Phạm Xuân Nguyên trong nước đã đánh giá về loại thể ký chỉ có 3 nhà văn Nguyễn Tuân, Võ Phiến và Hoàng Phủ Ngọc Tường là đáng mặt. Điều này không đáng tin cậy!

 

Nhà phê bình văn học Đặng Tiến  có lần từ Paris qua nhà tôi đã có nhận xét về những tập bút ký của Tường : “Cái thèng viết tầm bậy, tầm bọa, nhất là tập Nhàn Đàm”.

 

Có một nhận xét mang tińh chất mạ lỵ, xem thươǹg qua sự đánh giá con người và sự hiểu biết của Hoàng Phủ Ngọc Tường từ Nguyễn Ngọc Lan, trong bút ký “Hẹn Thắp Lên”, lời chứng 20 năm 1975-2000 đoạn nói về Hoàng Phủ Ngọc Tường trang 38-41.

 

Qua vụ thảm sát tết Mậu Thân, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thốt lên trong cay đắng : “Mậu Thân Huế đã trở thành bi kic̣h đời tôi”.

 

Tôi cho đó chỉ là một bi kịch nhỏ so với bi kịch lớn hơn nhiều đến trong đời Hoàng Phủ Ngọc Tường như đã chọn lầm con đường dấn thân để có ngày trở thành đảng viên đảng Cọng Sản. Rồi từ đó trải qua hết thảm kịch này tiếp thảm kịch khác không loại trừ thảm họa chung của đất nước, dân tộc mà Hoàng Phủ Ngọc Tường đã trực tiếp hay gián tiếp dự vào.

 

HỒ ĐÌNH NAM

London ngày 01.08.2023

==========================

Phụ chú của Lê Thị Huệ, www. gio-o.com

Hoàng Phủ Ngọc Tường (1937-2023) là một trong những lãnh tụ của nhóm Huế  thân Cọng thập niên 1960 . Những tên tuổi xứ Huế thân Cọng (hoặc theo Cọng) nổi đình nổi đám các thập niên 1960 và 1970 dưới chính thể Miền Nam Việt Nam Cọng Hòa có thể kể đến các nhân vật sau đây:  Trịnh Công Sơn (1942-2001), Nguyễn Đắc Xuân (1937-), Hoàng Phủ Ngọc Tường (1937-2023), Hoàng Phủ Ngọc Phan (1939-), Nguyễn Thị Đoan Trinh (1949-),  Lê Công Cơ (1941- Bí thư Ban Thanh vận kiêm Bí thư Tỉnh Đoàn Cọng Sản Thừa Thiên Huế (1969-1972, từng tham gia một số trận đánh ác liệt như Tổng tấn công Mậu Thân 1968 ở Huế với vai trò Chính trị viên Tiểu đoàn 810), Bửu Chỉ (1948-2002), Chu Sơn (1943-), Lê Văn Hảo (1936-2015), Trần Hữu Lục (1941-2021), Thái Ngọc San (1947-2005), Lê Khăc Quyến (1915-1978), Thái Kim Lan (1942-), Cao Thị Quế Hương (sinh ở Huế 1941-), Hoàng Văn Giàu (1938-2016), Võ Đình Cường (1917- ?),  Đoàn Đại Oanh (1947-1998), Lê Văn Ngăn (1944-2015), Trần Vàng Sao (1941-2018),  Trần Quang Long, (1941-1968), Tôn Thất Lập (1942-2023), Phan Duy Nhân (1941-2017), Ngô Kha (1935-1973), Trần Duy Phiên (1942-), Đông Trình (1942-), Ngô Minh (1949-2018), Nguyễn Phú Yên (1946-) ….  

Nhóm Huế là một trong những nhóm “Thân Cọng Nằm Vùng” mạnh nhất trong số các nhóm gầy dựng nên cơ sở “Nằm Vùng” cho Việt Cọng khá “giỏi”. Các nhóm Việt Cọng Nằm Vùng mạnh trong thời Chiến Tranh Việt Cọng là: nhóm Bình Định, nhóm Quảng Nam, nhóm Sài Gòn, Nhóm Miền Tây (Nam Bộ).  Các nhóm Thân Cọng Nằm Vùng trong chế độ Miền Nam Việt Nam Cọng Hòa (1954-1975) đã tung hô và hỗ trợ chủ nghĩa Cọng Sản do Hồ Chí Minh rước về “Việt Cọng Hóa Miền Bắc” năm 1945, để rồi ở trong Miền Nam chính các nhóm này đã giúp quân đội Bắc Việt “Việt Cọng Hóa Miền Nam” năm 1975. Nói tóm lại các nhóm Thân Cọng Nằm Vùng này  (người Miền Nam thời bấy giờ gọi là “Bọn Nằm Vùng”) là cánh tay đắc lực làm theo lệnh “trí vận” của Miền Bắc,  vận động và “lót ổ”  để Việt Cọng tiến vào thôn tính Miền Nam Việt Nam Cọng Hòa ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Chiến Tranh Cọng Sản chấm dứt. Miền Nam Việt Nam Cọng Hòa rơi vào tay Việt Cọng từ cuối tháng 4-1975.

Hoàng Phủ Ngọc Tường bị kết tội đã rước Việt Cọng từ Miền Bắc vào đấu tố và giết chết tập thể khoảng gần 5000 dân Huế trong vụ tổng công kích Tết Mậu Thân 1968 tại Huế.

Vụ này xảy ra vì trong khi các bên tuyên bố ngưng chiến để cho dân ăn Tết 1968 . Thì binh lính Việt Cọng từ đường mòn Hồ Chí Minh đem quân vào.  Với bản chất lừa dối, phản phé, đã nhằm vào nửa đêm lúc các bên tham chiến đang tưởng hưởng giấc an bình đón giao thừa  đầu năm bên gia đình ở Miền Nam, thì binh lính Việt Cọng đã lùa vào tấn công thành phố Huế . Và kết quả là họ đã bắn, đã lập tòa án trừng trị, đã bắt cóc và thủ tiêu gần 5000 dân Huế . Dân Miền Nam thời đấy gọi là “Vụ Thảm Sát Mậu Thân” do dân trong thành phố Huế bị Việt Cọng giết chết tập thể nhiều quá.

Nay ông Hoàng Phủ Ngọc Tường vừa nằm xuống – tháng 7 2023 . Nhiều dư luận dân Huế cùng thời còn sống,  cáo buộc ông là trong nhóm “Thủ Lĩnh Thân Cọng Nằm Vùng Xứ Huế” gồm Hoàng Phủ Ngọc Tường,  Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Thị Đoan Trinh, Hoàng Phủ Ngọc Phan đã rước Việt Cọng về Huế tàn sát người dân vô tội vào Tết Mậu Thân 1968.

Năm 1982, sau 7 năm Miền Nam Việt Nam rơi vào tay Cọng Sản, một đài truyền thông lớn của America – đài PBS - (Public Broadcasting Service) làm một cuộc phỏng vấn rộng rãi với rất nhiều nhân vật liên hệ đến cuộc chiến Cọng Sản ở Việt Nam. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã được ký giả Mỹ mời phỏng vấn .   Ông Hoàng Phủ Ngọc Tường lúc đó còn gay gắt dùng ngôn từ “Cách Mạng , Đảng, và Cọng Sản” để lên án sự tham chiến của Mỹ ở Việt Nam và biện minh cho vụ Tết Mậu Thân Huế 1968 mà ông bị quy kết tội đã gây nên giết tập thể người dân Huế  vào giữa đêm trừ tịch.

Nhưng sau đó, vào năm 2018 Hoàng Phủ Ngọc Tường do bị áp lực dư luận người Việt Tự Do khắp thế giới, ông đã tung ra một lá thư, nói mình đã nói sai trong vụ phỏng vấn với đài PBS năm 1982 . Lá thư có những đoạn như sau: (xem toàn lá thư đính kèm cuối bài)

"Năm nay tôi 81 tuổi, và tôi biết, còn chẳng mấy hồi nữa phải về trời. Những gì tôi đã viết, đã nói, đã làm rồi trời đất sẽ chứng nhận. Dầu có nói thêm bao nhiêu cũng không đủ. Tốt nhất là im lặng bằng tâm về cõi Phật. Duy nhất có một điều nếu không nói ra tôi sẽ không yên tâm nhắm mắt. Ấy là câu chuyện Mậu Thân 1968."

"Mậu Thân 1968 tôi không về Huế. Tôi, tiến sĩ Lê Văn Hảo và bà Tùng Chi (những người lên chiến khu trước) được giao nhiệm vụ ở lại trạm chỉ huy tiền phương, địa đạo Khe Trái (thuộc huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên)- để đón các vị trong Liên Minh Các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình Thành phố Huế như Hoà thượng Thích Đôn Hậu, cụ Nguyễn Đóa, ông Tôn Thất Dương Tiềm… lên chiến khu. Mồng 4 Tết, tôi được ông Lê Minh (Bí thư Trị Thiên) báo chuẩn bị sẵn sàng về Huế. Nhưng sau đó ông Lê Minh báo là "tình hình phức tạp" không về được. Chuyện là thế."

"Sai lầm của tôi là nhận lời ông Burchett và đoàn làm phim "Việt Nam một thiên lịch sử truyền hình" trả lời phỏng vấn với tư cách một nhân chứng Mậu thân Huế 1968, trong khi tôi là kẻ ngoài cuộc."

"...Cũng trong cuộc trả lời phỏng vấn này, khi nói về thảm sát Huế tôi đã hăng hái bảo vệ cách mạng, đổ tội cho Mỹ. Đó là năm 1981, khi còn hăng say cách mạng, tôi đã nghĩ đúng như vậy. Chỉ vài năm sau tôi đã nhận ra sai lầm của mình. Đó là sự nguỵ biện. Không thể lấy tội ác của Mỹ để che đậy những sai lầm đã xảy ra ở Mậu thân 1968." 

Năm 2012 em trai của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan trong một bài viết trả lời hai nhân vật tố cáo ông dính dáng đến vụ giết nạn nhân Huế Tết Mậu Thân 1968, đã viết: “

Tôi là Hoàng Phủ Ngọc Phan, một trong bộ ba Tường Phan Xuân – luôn luôn bị tên cựu thiếu tá cảnh sát Sài gòn là Liên Thành vu cáo những tội ác giết người ghê tởm trong hơn năm mươi năm qua. (xem tài liệu đính kèm ở cuối bài)

Ông Hoàng Phủ Ngọc Phan  đã nhận mình là một trong “bộ ba Tường-Phan-Xuân” . Vô hình chung, lời viết trên của Hoàng Phủ Ngọc Phan chứng tỏ bộ ba Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân là một bộ ba bất khả phân ly trong thời kỳ Tết Mậu Thân 1968 ở Huế.

Một nhà văn quân đội Miền Nam, ông Hồ Đình Nam nói,  ông đã có mặt tại Huế trong những ngày  lịch sử Thảm Sát Tết Mậu Thân 1968. Hồ Đình Nam từng nghe đài phát thanh Huế, lúc ấy đã được chiếm đóng bởi phe “Thân Cọng Nằm Vùng”, cho phát ra giọng của Hoàng Phủ Ngọc Tường kêu gọi dân quân Việt Nam Cọng Hòa hãy ra đầu hàng với nhóm Cách Mạng Việt Cọng.  Chính ông Hồ Đình Nam thấy tính mạng mình bị đe dọa. Ông viết:  “Chính bản thân tôi (Hồ Đình Nam) đã bị Nguyễn Đắc Xuân đến tận nhà vào sańg ngaỳ mồng Một với lời đe dọa ra triǹh diện với chính quyền Caćh Mạng, nhưng tối hôm đó tôi đã đào thoát cuǹg với số người chạy loạn từ Cầu Đất chạy về Mang Cá, nơi BTL Sư Đoàn 1 BB đặt bản doanh”. 

Là một trong 4 người mà dân Huế ai cũng biết. Nên dẫu không cầm súng bắn vào người dân vô tội ở Huế 1968 đi chăng nữa, thì đối với dân Huế,  Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Thị Đoan Trinh, Nguyễn Đắc Xuân là những kẻ chỉ huy mặt trận tàn sát dân Huế Tết Mậu Thân 1968. Đã là người chỉ huy sát cánh cùng đồng bọn gây nên thảm họa, thì phải chịu trách nhiệm về thảm họa ấy. Hồ Chí Minh không ra chiến trường cầm súng một ngày nào, nhưng là lãnh đạo cao cấp,  Hồ Chí Minh phải chịu trách nhiệm cho sự bần cùng hóa và tước đoạt Tự Do của người Việt Nam khi mang chủ thuyết Cọng Sản Quốc Tế về và tạo thành “Chiến Tranh Việt Cọng”,  gây nên cuộc nội chiến Miền Bắc cọng sản hóa Miền Nam Việt Nam (1945-1975). Là lãnh tụ nên phải chịu trách nhiệm kết quả gây ra.

Được biết nhà văn nhà báo quân đội Hồ Đình Nam đã là sĩ quan quân báo của quân đội Việt Nam Cọng Hòa. Sau năm 1975 anh bị Việt Cọng bỏ vào tù cải tạo. Anh và gia đình đi định cư tại England từ năm 1985. Vốn là con nhà giòng dõi văn chương xứ Huế, hết chiến tranh, khi được sống trong bầu khí quyển Tự Do ở London, Hồ Đinh Nam mới có dịp sáng tác viết văn và làm báo ở hải ngoại. Anh từng cọng tác với các báo uy tín ở hải ngoại, như Lửa Việt (Bùi Bảo Sơn, Canada), Phụ Nữ Diễn Đàn (Chữ Bá Anh Washington DC), Tự Do (Dương Kiền, Na Uy).  Anh dự tính xuất bản tác phẩm “Cuối Đường Phiêu Lãng”, và đang viết tiểu thuyết tình báo gián điệp phi hư cấu …

Hồ Đình Nam là em vợ của họa sĩ Đinh Cường người bạn mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn thân nhất cả đời, là anh vợ của nhà văn nổi tiếng ở Miền Nam- Dương Nghiễm Mậu, là anh ruột của nhà văn nổi tiếng ở hải ngoại, Hồ Đình Nghiêm Canada . Gia đình Hồ Đình Nam có mối liên hệ rất mật thiết với nhiều nhân vật quan trọng, tạo dựng nên thứ cung đình văn chương nghệ thuật chính trị tại xứ Huế trong thời Việt Nam Cọng Hòa (1954-1975) (lth)

***

Đính kèm 7 phụ bản:

 

Phụ bản 1. Hoàng Phủ Ngọc Tường. “LỜI CUỐI CHO CÂU CHUYỆN QUÁ BUỒN”. 11 tháng 2 2018

“Tôi đọc cho con gái chép một bài viết nhỏ này xin gửi tới bà con bạn bè thương mến, những ai yêu mến, quen biết và quan tâm đến tôi. Còn những kẻ luôn đem tôi ra làm mồi nhậu cho dã tâm của họ như ông Liên Thành và bè đảng của ông ta, tôi không muốn mất thời giờ đối đáp với họ. Dĩ nhiên bài viết này không dành cho họ.

 Năm nay tôi 81 tuổi, và tôi biết, còn chẳng mấy hồi nữa phải về trời. Những gì tôi đã viết, đã nói, đã làm rồi trời đất sẽ chứng nhận. Dầu có nói thêm bao nhiêu cũng không đủ. Tốt nhất là im lặng bằng tâm về cõi Phật. Duy nhất có một điều nếu không nói ra tôi sẽ không yên tâm nhắm mắt. Ấy là câu chuyện Mậu thân 1968. 

  Vậy xin thưa:

 1.    Mậu Thân 1968 tôi không  về Huế. Tôi, ts Lê Văn Hảo và bà Tùng Chi (những người lên chiến khu trước) được giao nhiệm vụ ở lại trạm chỉ huy tiền phương- địa đạo Khe Trái ( Thuộc huyện Hương Trà- tỉnh Thừa Thiên)- để đón các vị trong Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ Và Hòa Bình Thành Phố Huế  như Hoà thượng Thích Đôn Hậu, cụ Nguyễn Đoá, ông Tôn Thất Dương Tiềm…lên chiến khu.  Mồng 4 tết tôi được ông Lê Minh (Bí thư Trị- Thiên) báo chuẩn bị sẵn sàng về Huế. Nhưng sau đó ông Lê Minh báo là “tình hình phức tạp” không về được. Chuyện là thế. Tôi đã trả lời ở RFI, Hợp Lưu, Báo Tiền Phong chủ nhật… khá đầy đủ. Xin không nói thêm gì nữa.

  2.    Sai lầm của tôi là nhận lời ông Burchett và đoàn làm phim "Việt Nam một thiên lịch sử truyền hình” trả lời phỏng vấn với tư cách một nhân chứng Mậu thân Huế 1968, trong khi tôi là kẻ ngoài cuộc.

 Tôi xác nhận đây là link clip tung lên mạng là bản gốc cuộc phỏng vấn:

https://www.youtube.com/watch?v=MaNr16RDrzQ

Để chứng tỏ mình là người trong cuộc, tôi đã  dùng ngôi thứ nhất- “tôi”, “chúng tôi” khi kể một vài chuyện ở Huế Mậu Thân 68. Đó là những chuyện anh em tham gia chiến dịch kể lại cho tôi, tôi đã vơ vào làm như là chuyện do tôi chứng kiến.  Đặc biệt,  khi kể chuyện máy bay Mỹ đã thảm sát bệnh viên nhỏ ở Đông Ba chết 200 người, tôi đã nói: “Tôi đã đi trên những đường hẻm mà ban đêm tưởng là bùn, tôi mở ra bấm đèn lên thì toàn là máu ...Nhất là những ngày cuối cùng khi chúng tôi rút ra ..”. Chi tiết đó không sai, sai ở chỗ người chứng kiến chi tiết đó không phải là tôi, mà là tôi nghe những người bạn kể lại. Ở đây tôi là kẻ mạo nhận, một việc rất đáng xấu hổ, từ bé đến giờ chưa bao giờ xảy ra đối với tôi.

Cũng trong cuộc trả lời phỏng vấn này, khi nói về thảm sát Huế tôi đã hăng hái bảo vệ cách mạng, đổ tội cho Mỹ. Đó là năm 1981, khi còn hăng say cách mạng, tôi đã nghĩ đúng như vậy. Chỉ vài năm sau tôi đã nhận ra sai lầm của mình.  Đó là sự nguỵ biện. Không thể lấy tội ác của Mỹ để che đậy những sai lầm đã xảy ra ở Mậu thân 1968.

Tôi đã nói rồi, nay xin nhắc lại:

Điều quan trọng còn lại tôi xin ngỏ bầy ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra đi và trở về, ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng.

 3.    Từ hai sai lầm nói trên tôi đã tự rước hoạ cho mình, tự tôi đã đánh mất niềm tin yêu của nhiều người dân Huế đối với tôi, tạo điều kiện cho nhiều kẻ chống cộng cực đoan vu khống và qui kết tôi như một tội phạm chiến tranh.

Tôi xin thành thật nhìn nhận về hai sai lầm  nói trên, xin ngàn lần xin lỗi.

Sài Gòn, ngày 1 tháng 2 năm 2018

 Hoàng Phủ Ngọc Tường

(Nguồn từ trang Facebook của nhà văn Nguyễn Quang Lập : https://www.facebook.com/notes/4504440282930651/?paipv=0&eav=AfZA90T4OFiDoQnZuAGGJHZgaPVEtj2OiPTg77zkEzahxhI7fdJhy-7vYiXImuBmrqs&_rdr

 

Phụ bản 2. Chú thích của nhà văn Hồ Đình Nam



 

Phụ bản 3 . Hình ảnh nạn nhân vụ Thảm Sát Mậu Thân Huế 1968 do quân Việt Cọng gây ra

 



Phụ bản 4.

NGUYỄN THỊ THÁI HÒA, NHÂN CHỨNG SỐNG TRONG ĐỢT THẢM SÁT TẾT MẬU THÂN Ở HUẾ

2011

Kính thưa Ông Liên Thành,

Tôi xin tường thuật lại chi tiết những cái chết đau thương của ông nội tôi, ba người anh, cùng một người bạn của họ, như là một nhân chứng còn sống sót sau tết Mậu Thân, như là tiếng kêu oan cho gia đình tôi, cho linh hồn của những người thân trong gia đình, gia tộc tôi cách riêng, và cho những người dân Huế nói chung, thay cho tất cả những ai bị sát hại trong tết Mậu Thân 1968 bây giờ còn kẹt lại VN không có cơ hội để nói lên những oan khiên mà họ đã gánh chịu bởi Đảng Cộng Sản, và bè lũ tay sai khát máu giết hại dân lành vô tội như anh em Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Thị Đoan Trinh v.v…

Thưa ông,

Năm 1968, tôi đang là sinh viên năm thứ nhất trường Cán Sự Điều Dưỡng Huế. Ngoài những giờ học lý thuyết chung tại trường, bọn sinh viên chúng tôi được chia thành nhiều toán. Mỗi toán từ 8 đến 10 người, luân phiên thực tập ở các trại bệnh trong BV Trung Ương Huế.

Có những trại bệnh sinh viên thực tập theo giờ hành chánh. Có một vài nơi, như phòng cấp cứu, phòng bệnh nội thương … thì giờ thực tập được chia làm ba ca, sáng, chiều và đêm … Ca sáng từ 7giờ đến 2 giờ chiều, ca chiều từ 2 giờ đến 9 giờ tối, và ca đêm từ 9 giờ tối cho đến 7giờ sáng hôm sau.

Mỗi một nơi chúng tôi được thực tập từ 2 đến 3 tuần lễ. Hai tuần trước tết, toán của tôi được chia phiên thực tập ở phòng cấp cứu. Ngày mồng hai, tôi và hai anh bạn vào ca đêm.

Tết năm nay ba tôi bận đi hành quân xa không về kịp ăn tết.

Thường thì mấy anh em tôi năm nào cũng vậy, đều phải về nhà ông bà nội từ trước ngày 30 tết, ở luôn cho hết ngày mồng một, rồi sau đó mới được tự do đi chơi, thăm viếng bạn bè…

Sau bữa cơm tối mồng một tết, khoảng 8 giờ 30, anh Hai lấy xe Honda của anh đưa tôi tới BV, và nói sáng mai anh sẽ đến đón.

Tối mồng một tết phòng cấp cứu hơi vắng, chúng tôi, mấy anh sinh viên y khoa và hai người nhân viên phòng cấp cứu nói đùa với nhau rằng hôm nay tụi mình… hên! Chúng tôi mang một ít mứt bánh ra vừa ăn vừa nói chuyện, vừa thay nhau thăm chừng những bệnh nhân mới nhập viện từ đêm qua chưa được chuyển trại.

Nhưng qua nữa đêm thì bắt đầu nghe có tiếng súng. Tiếng súng lớn, nhỏ, từ xa rồi mỗi lúc một gần. Chúng tôi thốt giựt mình, băn khoăn nhìn nhau, hoang mang lo sợ. Bầu không khí bắt đầu căng thẳng, mấy anh sinh viên y khoa thì nghe ngóng bàn tán, thắc mắc không biết tiếng súng từ đâu vọng lại…

Lúc đầu chúng tôi tưởng là thành phố Huế và BV bị pháo kích, nhưng không ngờ, chừng 3, 4 giờ sáng, bất thần không biết từ ngõ ngách nào có chừng mười mấy người tràn vào phòng cấp cứu, họ xưng chúng tôi là quân giải phóng. Đa số mặc áo quần đen, súng mang vai, bị rết ngang hông. Họ bắt tất cả chúng tôi băng bó cho một số người bị thương, đồng thời hò hét chia nhau lục soát, vơ vét, và lấy đi một số thuốc men, bông băng, dụng cụ y khoa v.v… Họ lấy sạch không chừa lại một món nào, kể cả những bánh mứt chúng tôi để trong phòng trực.

Trong lúc bọn họ đang tranh nhau lục lọi, thì ầm một cái, một tiếng nổ rớt rất gần, đâu đó trong BV, rồi tiếng thứ hai, thứ ba… rớt ngay con đường phía trước cổng chính BV, kề phòng cấp cứu… Điện trong phòng cấp cứu vụt tắt. Thừa lúc bọn chúng nhốn nháo kéo nhau đi, chúng tôi mạnh ai nấy tìm đường chạy thoát thân.

Ra khỏi phòng cấp cứu, tôi cắm đầu chạy, tôi không định hướng được là mình đang chạy đi đâu. Súng nổ tư bề, cứ nằm xuống trốn đạn, rồi đứng lên chạy, cứ thế mà chạy. Chạy bất kể tả hữu. Cho tới khi tôi đâm sầm vào một người, định thần ngó lại mới biết đó là cha Trung, tuyên úy của BV. Cha từ phía một trại bệnh nào đó tình cờ chạy về phía tôi. Nét mặt cha cũng thất thần, đầy vẻ lo âu, nhận ra tôi, cha hỏi “con ở mô chạy lại đây?” Tôi nói “từ phòng cấp cứu”. Vừa nói vừa theo cha, chạy về phía nhà nguyện của BV và cũng là chỗ ở thường ngày của cha. Đến đó thì đã có hai bà sơ dòng áo trắng và vài người nữa không biết từ trại bệnh nào cũng chạy lại đây. Tôi nhận ra trong số đó có sơ giám thị suốt trong sáu năm tôi nội trú tại trường trung học Jeane d’ Arc.

Cha Trung quen biết ông nội và ba mạ tôi, thỉnh thoảng ngài có ghé đến thăm ông nội nhà ở đường Hàm Nghi, nên ngài biết tôi. Không biết chạy đi đâu nữa tôi ở lại đó với cha hai bà sơ, và mấy người nữa.

Bốn năm ngày liền chúng tôi chui rúc trong nhà nguyện, không dám chạy ra ngoài và cũng không liên lạc được với một ai từ những trại bệnh khác. Súng nổ tư bề nên ai ở đâu thì cứ ở đó.

Sau khi đám người xưng là “quân giải phóng” ở Cấp Cứu kéo nhau đi chúng tôi không gặp, không thấy bọn VC nào nữa, hay chúng đang lẩn trốn trong những trại bệnh khác thì tôi không biết.

Tới ngày thứ năm, ruột gan như lửa đốt, không biết ông bà nội, mạ và mấy anh em tôi trên đường Hàm Nghi ra sao. Tôi nói với cha Trung, cha ơi con muốn về nhà. Cha bảo, không được, súng đạn tư bề, nguy hiểm lắm, cứ ở đây với cha và mấy sơ đi đã, khi mô có lính mình xuất hiện thì mới đi được. Tôi hỏi, khi mô thì lính mình mới tới, cha nói không sớm thì muộn họ cũng sẽ phản công thôi, cha nói như để trấn an tôi và mọi người thôi chứ trên mặt cha thì vẫn đầy vẻ lo âu…

Không biết nghe tin từ đâu mà một người trong nhóm nói người ta chạy vô ở trong nhà thờ Phủ Cam đông lắm. Tôi nghe càng nóng lòng muốn chạy về nhà. Muốn đi phần vì sốt ruột muốn gặp mạ với mấy anh em tôi, phần vì đói. Đã mấy ngày không có gì ăn ngoài mấy ổ bánh mì cứng còng của Caritas còn sót lại ở nhà nguyện chúng tôi chia nhau gặm…cầm hơi!

Tôi quyết định chạy về tìm gia đình. Tôi liều. Trên người tôi chỉ có bộ đồ đồng phục dính đầy máu, tôi chạy ra phía sau cổng BV, tìm đường về nhà. Vừa chạy vừa lo, ngó tới, ngó lui không một bóng người, nhưng tiếng súng thì nghe rất gần. Không biết mấy lần vấp, tôi té xuống. Té rồi lồm cồm bò dậy, vài bước lại vấp té. Tôi lạnh run, hai hàm răng đánh bò cạp, nhìn cảnh tượng xác người nằm đây đó, máu me đóng vũng, không biết họ bị thương đâu đó ở bên ngoài chạy vào gục chết ở đây. Quá sợ hãi, tôi định chạy trở lại nhà nguyện thì bất thần thấy anh Văn hớt ha hớt hải từ cổng sau BV chạy vô.

Văn là bạn của anh Hải, anh kế tôi, hai người cùng học ở Văn Khoa. Nhà Văn ở miệt trên, gần dòng Thiên An. Mặt mày Văn xanh xao, hai mắt thất thần, trủm lơ, gặp tôi Văn lắp bắp, nói không ra hơi. Ti ơi thằng Hải bị bắn chết rồi. Hắn bị bắn ở bên Văn Khoa. Toàn thân run rẩy, tôi khuỵu xuống. Văn đỡ tôi đứng lên. Lại có tiếng nổ rất gấn. Văn hoảng hốt kéo tôi chạy lại ngồi xuống bên trong bức tường sát cánh cổng sau BV. Hai đứa tôi run rẩy ngồi sát vào nhau. Lát sau, tiếng được tiếng mất, anh lắp bắp kể. Văn nói mấy đêm rồi Văn với mấy người anh của tôi trốn đạn trong nhà thờ Chánh Tòa (nhà thờ Phủ Cam), nhưng rồi đêm qua có mấy sinh viên của mình dắt một toán VC vô nhà thờ đọc một lô danh sách, họ lùa người đi đông lắm, không biết họ đưa đi đâu. Văn kể một hơi mấy tên “sinh viên của mình” nhưng bây giờ tôi không còn nhớ nổi.

Khi đám người bị lùa đi, thân nhân của họ khóc la thảm thiết.

Sau đó Văn, anh Hải cùng mấy người bạn rủ nhau trốn ra khỏi nhà thờ và mạnh ai nấy tìm đường trốn.

Ra khỏi nhà thờ, không biết trốn chui, trốn nhủi, chạy quanh, chạy co, làm sao mà Văn với anh Hải lại tới được trường y khoa. Anh Lộc, anh Kính đi lạc hướng nào không biết. Hai anh hè nhau chui vô phòng thí nghiêm trốn thì thấy có vài người đã bị bắn chết từ bao giờ mà những vũng máu đọng dưới họ còn tươi lắm. Văn, anh Hải hoảng hồn chạy trở ra. Chưa ra khỏi cửa thì gặp Hoàng Phủ Ngọc Phan (HPNP) và Nguyễn thị Đoan Trinh (NTĐT) cùng mấy sinh viên khác nữa Văn không biết tên, chỉ biết họ đồng bọn với HPNP. Văn biết mặt Phan là vì Văn có người anh học y khoa cùng lớp với Phan.

Gặp Văn, Phan nạt nộ, tụi mi chạy trốn đi mô? Khôn hồn thì chạy qua bên Văn Khoa tập trung ở đó để đi tải thương! Hải và Văn biết không thể nào thoát khỏi sự kiểm soát của bọn HPNP nên vội vàng chạy bộ xuống Văn Khoa, hy vọng bị bắt đi tải thương chứ không bị giết.

Bọn Trinh, Phan chạy xe Honda nên họ tới trước, và cũng đã bắn trước một số người khác rồi. Hải, Văn không biết nên lúc thúc chạy đến. Anh Hải chạy vô trước, nghĩ là sẽ gặp được một số bạn bè khác, cùng đi tải thương với nhau như lời HPNP nói.

Vừa vô tới giảng đường thì anh Hải bị HPNP bắn gục ngay. Văn mắc đi cầu, tìm chỗ phóng uế nên chạy vô sau anh Hải. Mới tới cửa thì nghe tiến súng, tiếng hét của anh Hải, Văn quay đầu bỏ chạy. Chưa kịp rượt theo Văn thì bỗng ầm, một tiếng nổ đâu đó, trong sân trường đại học, khiến HPNP và đồng bọn hoảng hốt leo lên xe Honda tháo chạy. Văn thoát chết, chạy như điên, như khùng, chạy vô BV, và tình cờ gặp tôi trong đó.

Nghe anh Hải bị bắn trong sân đại học Văn khoa, tôi bỏ ý định về nhà, tôi muốn chạy qua Văn Khoa tìm anh tôi, hy vọng anh chưa chết, tôi nghĩ sẽ tìm cách đưa anh vô BV cấp cứu. Tôi khóc nói với Văn, em tới chỗ anh Hải. Văn can, Ti đừng đi, tụi nó có thể trở lại. Tôi mặc kệ Văn ngồi đó, vừa khóc vừa chạy. Một lát nghe tiếng chân Văn sau lưng, miệng thì nói, Ti ơi, vô BV trốn đi, Hải nó chết thiệt rồi, mà chân vẫn bước theo tôi. Tôi như người mất hồn, vừa đi, vừa chạy, vừa khóc. Trời ơi, thật là khủng khiếp, chỉ một đoạn đường từ cổng sau BV tới sân trường VK mà không biết bao nhiêu là xác người, áo quần vung vãi khắp nơi.

Chúng tôi chạy mới tới trường trung học Jeane d’Arc, thì gặp bọn HPNP lấp ló trước cổng trường với một nhóm bộ đội Bắc Việt. Người nào mặt mày cũng đằng đằng sát khí. Gặp lại Phan, Văn run rẩy, Phan chưa kịp nói thì Văn đã lắp bắp phân trần, em qua BV kiếm con Ti chớ em không có trốn mô, và xin xỏ, anh cho em với con Ti đem xác thằng Hải về nhà rồi em trở lại đi… tải thương!

Phan không trả lời Văn, hắn nhìn tôi ác độc, mi về nhà kêu thằng Lộc, thằng Kính xuống đây mà đem thằng Hải về. Tôi líu lưỡi, em không biết hai anh em ở mô mà kêu. Trước đây tôi không hề biết mặt HPNP, mà cũng chưa hề nghe nói tới tên người này vì trước năm 68 tôi còn là học sinh trung học. Có thể những người anh của tôi thì biết, vì họ là những lớp sinh viên đàn anh, đã từng qua những khó khăn đối đầu với đám sinh viên theo phe “tranh đấu, lên đường xuống đường” của những năm trước.

HPNP to nhỏ gì với những người đồng bọn rồi quay lại ra lệnh cho tôi với anh Văn đem xác anh Hải về nhà. Chưa biết nghĩ cách nào để đem xác anh Hải về thì Văn thấy một chiếc xích lô của ai bị bể bánh xe sau, nằm chơ vơ cạnh vách tường trường Jeane d’Arc.

Văn gọi tôi theo anh. Chúng tôi đẩy chiếc xích lô sứt cọng gẫy càng về phía Văn khoa. Có chừng 10 xác người trong đó. Tôi không dám nhìn lâu. Chúng tôi hè hụi khiêng Hải bỏ lên xích lô. Xác anh đã cứng. Đùm ruột lòi ra ngoài trông rất khủng khiếp. Hai mắt vẫn còn mở trừng. Miệng vẫn còn há ra.

HPNP vừa đánh anh Văn bằng báng súng vừa chửi. Chuyến ni mi trốn nữa, mi gặp lại tau là mi chết! Văn run rẩy lắp bắp, dạ lạy anh, em không dám nữa mô. Rồi chúng tôi hè hụi đẩy chiếc xích lô mang xác người anh xấu số của tôi nhắm hướng cầu Kho Rèn đi lên. Nhà tôi ở trên đường Hàm Nghi. Qua khỏi cầu một chút. Suốt quãng đường từ đó về đến nhà, có rất nhiều đám lính bộ đội Bắc Việt đứng tụm năm, tụm ba. Chúng tôi không bị bắt giữ lại vì có HPNP chạy đi trước ra dấu cho họ để cho chúng tôi đi.

Khúc đường ngang trường Thiên Hựu cũng có rất nhiều xác người nằm rãi rác. Nhiều vũng máu cũng như xác người bị ruồi bu đen. Đã mấy ngày không có gì trong bụng, tôi vừa đi vừa ói khan. Văn cũng vậy. Chúng tôi ráng sức đẩy chiếc xích lô, trong lúc HPNP cùng hai người đàn bà nữa cứ chạy xe đảo tới, đảo lui hối chúng tôi mau lên. Tôi nghe chúng nó hỏi nhau, bên Lý Thường Kiệt, Nguyễn Huệ còn ai nữa không? Có mấy chiếc xe Honda chở gạo, bánh tét, đã tịch thu của nhà ai đó chạy thẳng vô trường Thiên Hựu.

Lúc đó bỗng dưng có mấy chiếc trực thăng xuất hiện trên trời nhả đạn xuống, Văn nói như reo bên tai tôi, Ti ơi, máy bay của mình. Mừng chưa kịp no, thì trời ơi, từ những cửa sổ trên lầu của trường Thiên Hựu những họng súng lớn nhỏ nhả đạn, nhắm hai chiếc trực thăng mà bắn, lúc đó chúng tôi mới biết là VC đang ở trong trường Thiên Hựu quá nhiều. Hoảng hồn, tôi, Văn chạy lại ngồi sụp xuống bên tường rào của trường tránh đạn. Phan và đồng bọn biến đâu mất. Tụi nó như ma, khi ẩn, khi hiện. Nhưng chỉ được một lát, hai chiếc trực thang bay đâu mất. Chúng tôi thất vọng, khi thấy Phan với đồng bọn xuất hiện hối chúng tôi đi.

Lên tới cầu Kho Rèn, thấy một đám người, đàn ông, đàn bà, con nít bị bắt trói chung với nhau ngồi trên đầu cầu. Họ ngồi gục đầu xuống hai đầu gối. Tiếng con nít khóc, tiếng mấy bà mẹ dỗ con, nín đi con ơi. Đi ngang qua họ mà chúng tôi không dám nhìn. Có tiếng người trong đám gọi tôi Ti ơi, quay lại tôi nhận ra chị giúp việc của mẹ tôi và vợ của một chú cùng đơn vị với ba tôi ở tiểu đoàn 12 Pháo Binh Phú Bài. Tôi đoán họ là những người từ trên Phủ Cam, chung quanh cầu Kho Rèn, Hàm Nghi và những con đường chung quanh đó chạy xuống tìm đường trốn lên Phú Lương thì bị bắt giữ.

Tôi định dừng lại hỏi thăm thì HPNP trờ xe tới nạt nộ “đi mau, ngó chi!”

Trên đoạn đường từ Văn Khoa ngang qua trường Thiên Hựu, cầu Kho Rèn, lên tới nhà nội chúng tôi thấy nhiều người bị trói dính chùm vào với nhau đi trước mấy người mặc đồ đen đi dép râu, mang súng.

Súng nổ tư bề mà sao không thấy bóng dáng lính mình ở đâu cả. Chỉ thấy lính bộ đội Bắc Việt khắp nơi.

Trên đường Hàm Nghi, Nguyễn Thị Đoan Trinh chạy ngang nhà nào mà y thị gật đầu là y như rằng trong nhà đó có người bị bắt đem ra, người thì bị bắn tại trước nhà, người thì bị dắt đi, mấy ông bà cụ trong nhà chạy theo nằm lăn ra đường khóc la thảm thiết… Bọn lính Bắc thì cứ chửi thề luôn miệng, đéo mẹ câm mồm, ông bắn bỏ mẹ bây giờ…

Hai chúng tôi cứ nghiến răng, cúi mặt, lầm lũi đẩy chiếc xích lô mang xác Hải đi tới.

Khi gần tới nhà tôi ở số 24 đường Hàm Nghi thì HPNP và NTĐT rà xe lại gần bảo tôi, không được đẩy vô nhà mi. Đẩy lên trên tê!

Đẩy lên trên tê, tôi hiểu đây là đẩy lên nhà ông bà nội tôi. Cũng trên đường Hàm Nghi nhưng nhà nội tôi ở trên dốc, hướng đi lên Phủ Cam. Nhà ba mạ tôi thì ở gần cầu Kho Rèn.

Tôi cũng không hề biết mặt Nguyễn Thị Đoan Trinh trước đó. Trong hoàn cảnh này tôi mới biết mặt y thị là nhờ anh Văn nói. Tội nghiệp anh Văn, cứ tưởng khi HPNP biểu cùng tôi đẩy xác anh Hải về là được tha chết. Anh Văn và tôi cũng không ngờ rằng đoạn đường từ Văn Khoa lên tới nhà nội trên đường Hàm Nghi là đoạn đường sau cùng chúng tôi đi chung với nhau trong cuộc đời này.

Lên tới nhà nội, chúng tôi đẩy Hải vô bên trong hàng rào chè tàu, bỏ Hải ngoài sân tôi với Văn chạy vào nhà, nhà vắng ngắt, đi từ trước ra sau bếp gọi ông ơi, mệ ơi. Nghe tiếng ông nội yếu ớt từ trong buồng vọng ra, ai đó, đứa mô đó? Con đây, ông nội. Nghe tiếng tôi, ông tôi hấp tấp chạy ra, bước chân xiêu xiêu, ông tôi chạy lại ôm tôi, ông khóc, ông nói, lạy Chúa lạy Mẹ cháu tui còn sống. Tôi không khóc được, tôi run rẩy trong tay ông nội. Ông tưởng tôi sợ nên an ủi, con còn sống mà về được đây là phúc lắm rồi, ở đây với ông nội, không can chi mô! Nghe nói mạ mi đưa ba thằng em mi chạy lên Phú Lương rồi, không biết đi tới mô rồi, có thoát được không? Lạy Chúa, lạy Mẹ phù hộ.

Tôi không nói vì quá mệt, kéo tay ông nội ra ngoài, thấy Văn ngồi bệt dưới nền nhà, ông hỏi, đứa mô giống thằng Văn rứa bây? Văn òa khóc, tôi khóc theo, kéo ông nội ra sân. Nhìn thấy xác Hải ông nội tôi khuỵu xuống, miệng thì kêu trời ơi, trời ơi, răng mà ra nông nỗi ni…

Chúng tôi đem Hải vào nhà, đặt anh trên divan. Ông nội lấy mền đắp lên xác Hải.

Hai người anh tôi đang trốn trên trần nhà đòi xuống nhìn mặt Hải. Ông nội không cho. Anh Lộc giở nắp trần nhà sát góc tường, thò đầu xuống vừa khóc vừa nói, Ti, đẩy cái ghế đẩu qua cho anh. Tôi nghe lời ra đằng sau bếp lấy cái ghế đẩu mang lên để ngay góc phòng cho anh Lộc nhẩy xuống. Ông nội ngó lên, quơ quơ hai tay, giọng ông lạc đi, đừng xuống, ông nội lạy con, đừng xuống, ở trên đó đi mà… Anh Kính đang ở trên đó, cũng đang khóc. Lộc chưa kịp nhẩy xuống thì nghe tiếng nói, tiếng chân người ngoài sân. Anh vội vàng đóng miếng ván lại thì bọn HPNP cũng vừa vào đến.

Thấy Phan bước vô, mặt Văn biến sắc, anh lắp bắp nói với ông nội, anh Phan cho tụi con đem xác về đó ông ơi. Ông nội đứng im không nói. Hai mắt cú vọ của nó ngó ông nội hỏi, thằng Lộc, thằng Kính ở mô? Ông nội nói tui không biết. Phan gằn giọng, ông thiệt không biết tụi hắn ở mô? Tụi hắn năm mô cũng về ăn tết ở đây mà ông không biết răng được? Ông nội nói, ba ngày tư ngày tết, ăn xong thì tụi hắn đi chơi, đi thăm bà con họ hàng chứ chẳng lẽ ở nhà hoài răng? Chừ thì tui biêt tụi hắn ở nhà mô mà chỉ!

Mắt Phan ngó láo liên khắp nơi, chợt thấy cái ghế đẩu ngay góc phòng, nó cười khan một tiếng.

Tôi đứng núp sau lưng ông nội, HPNP hung hăng bước tới, xô ông nội qua một bên, nó nắm lấy tóc tôi kéo tôi ra về phía hắn. Ngó lên trần nhà la lớn, Lộc, Kính, Hiệp, tụi mày không xuống tau bắn con Ti!

Nó vừa nói, vừa xoáy mái tóc dài của tôi trong tay, nó đẩy tới, đẩy lui. Tôi đau điếng, tôi sợ, tôi run lẩy bẩy, nước mắt ứa ra nhưng không dám la thành tiếng. Ông nội tôi chấp tay lạy nó như tế sao, tui lạy anh tha cháu tui, con gái con lứa, hắn biết chi mô.

Thằng Phan càng la lớn, tau biết tụi mi trên đó, có xuống không thì nói, tau bắn con Ti.

Phan xô tôi té xuống, lấy chân đạp lên lưng. Chĩa mũi súng lên đầu tôi hô một, hai,ba… Lập tức anh Lộc mở nắp trần nhà thò đầu xuống la to, đừng, đừng bắn em tau, tau xuống, để tau xuống… Ông nội tôi chạy lại giữ cái ghế cho anh bước xuống, hai chân ông run, ông té sấp, đang lúc anh Lộc tìm cách tuột xuống, thò hai chân xuống trước, hai tay còn vịn trần nhà, khi đôi chân vừa chạm chiếc ghế đẩu thì HPNP đã nổ súng, đạn trúng ngay chính giữa cổ, máu phọt ra, Lộc lăn xuống sàn nhà toàn thân anh dẫy dụa mấy cái rồi nằm im.

Mặc ông nội tôi la hét thất thanh, Phan chĩa súng bắn lên trần nhà, nghe tiếng anh Kính lăn tới đâu, nó bắn tới đó, bắn nát trần nhà, hết đạn nó dành lấy cây súng của một thằng khác bắn tiếp, cho tới khi anh Kính tôi rớt xuống theo mấy miếng ván.

Anh Văn ngồi bệt xuống đất, nhắm mắt, bịt tai, run lẩy bẩy, ngồi kề bên cạnh anh người tôi tê cóng, đái ỉa ra cả quần, ông nội tôi nhào tới ôm anh Kính, hai mắt trợn trừng, anh đang thều thào những lời sau cùng, ông khóc, ông chửi rủa thằng Phan, nó say máu, bắn luôn ông nội tôi. Ông tôi đổ xuống bên cạnh anh Kính.

Bắn ông tôi xong chúng kéo nhau đi bắt anh Văn theo. Còn lại một mình, tôi bò lại ôm lấy ông nội, tôi khóc không ra tiếng, tôi thở không ra hơi, hai bàn tay tôi ướt đẫm máu, máu của ông nội tôi, tôi bò sang anh Lộc, bò sang anh Kính, tôi lay, tôi gọi, tôi gào, không ai nghe tôi hết, anh tôi không trả lời tôi, hai con mắt, bốn con mắt, sáu con mắt đều mở trừng, ông nội tôi nằm im, máu trong ngực ông vẫn tuôn ra từng vòi. Tôi gục đầu xuống xác ông lịm đi. Không biết bao lâu thì tôi tỉnh lại, nhưng không ngồi dậy nổi. Cứ nằm ôm lấy xác ông nội. Tóc tôi bết đầy máu, toàn thân tôi, máu, phân và nước tiểu đẩm ướt. Tôi không còn sức để ngồi lên. Không biết tôi nằm bên cạnh xác ông tôi với ba người anh như vậy là bao lâu, khi tỉnh dậy thì thấy hai vợ chồng bác Hậu, vài người lối xóm với ông nội đang ở trong nhà.

Họ dọn dẹp, khiêng bộ ngựa trong nhà bếp ra trước phòng khách, đặt xác ông nội cùng với ba người anh tôi nằm chung với nhau. Hai bác gái đem tôi vào phòng tắm, phụ nhau tắm rửa cho tôi như một đứa con nít, bác Hậu lấy áo quần của bác mặc cho tôi. Tâm trí tôi hoàn toàn tê liệt. Tôi không còn khóc được, không còn mở miệng nói được câu nào. Ngày cũng như đêm ngồi rũ rượi bên cạnh xác của ông tôi, các anh tôi. Tôi không còn sợ chết. Nhưng sao tụi nó không giết luôn tôi? Trời hỡi, trời ơi!

Nhìn thấy tôi tiều tụy, mỗi ngày bác Hậu gái khuấy cho tôi vài muỗng bột bích chi ép tôi uống. Thiệt ra nhà nội cũng chẳng còn chi. Gạo cơm, bánh mứt thì bị tụi nó khiêng đi hết rồi. Bác Hậu còn giấu được ít gạo, ít than nấu cháo uống cầm hơi với nhau.

Ngày hôm sau thằng Phan trở lại. Bác Hậu xin phép được chôn ông tôi và mấy người anh sau vườn nhà nhưng nó không cho, nói cứ để đó.

Đã hơn bảy ngày, xác đã bắt đầu sình lên và nặng mùi. Mà Phan không trở lại. Một buổi tối tụi bộ đội Bắc Việt đến lục lọi kiếm gạo. Bác Hậu xin chúng nó đào huyệt sau nhà để chôn ông nội và ba người anh tôi. Chúng nó bảo ừ thối quá rồi thì chôn đi, nhưng chỉ được đào một lỗ huyệt.

Vợ chồng bác Hậu khóc lóc năn nỉ, mấy anh ơi, người chết rồi biết chi, anh cho tụi tui đào 4 huyệt. Chúng không cho. Chúng nó phụ bác Hậu đào huyệt. Bảo đem cả bốn người bỏ xuống chung một lỗ. Lấp lẹ đi, thối quá. Bác Hậu với mấy người trong nhà không ai muốn làm, ngó nhau mà khóc…

Chiều tối hôm đó Văn trở lại với Phan và mấy thằng bộ đội. Chúng nó bắt Văn phụ với mấy thằng bộ đội khiêng từng người ra bỏ xuống huyệt. Hai vợ chồng bác Hậu theo ra vườn. Tôi kiệt sức nằm vùi một chỗ nhưng tai tôi vẫn nghe rõ những lời đối thoại trong nhà. Tôi không đủ can đảm theo ra vườn chứng kiến cảnh vùi lấp những người thân yêu của tôi. Nằm trong buồn ông bà nội nhưng tôi nghe rõ từng tiếng cuổng xẻng đang đào đất. Tâm trí tôi quay cuồng, ruột gan tôi đòi đoạn. Trời ở đâu, đất ở đâu? Tôi gọi ông tôi, gọi anh Lộc, anh Kính, anh Hải, không ai nghe tôi hết…

Khi bốn cái xác người được bỏ xuống, miệng lỗ chưa được lấp, thì tôi nghe tiếng súng nổ, tiếng kêu gào của vợ chồng bác Hậu, nhưng không nghe tiếng của Văn. Tiếng bác Hậu kêu Văn ơi, Văn ơi giọng bác đòi đoạn, thì tôi biết chuyện gì đã xẩy ra cho Văn. Toàn thân tôi lẩy bẩy, tôi cảm thấy khó thở, một lần nữa cứt và nước đái trong người tôi túa ra.

Tôi nghe tiếng mấy thằng bộ đội hò hét bảo lấp đất lại. Bác Hậu và những người hàng xóm của nội tôi đành phải làm theo. Khi tụi bộ đội VC bỏ đi, bác Hậu chạy vào buồng vò đầu, bức tai, giọng tức tưởi, thằng Văn nằm chung với ba thằng anh mi rồi con ơi! Trời ơi, là trời ơi, bác Hậu đấm ngực, không biết thằng Văn đã chết chưa mà hắn bắt tui lấp. Văn ơi là Văn ơi, con tha tội cho bác, trời ơi người mô mà ác như rứa… Tôi lặng người, nghe bác Hậu khóc anh Văn.

Sau lần đó không đứa nào trong bọn chúng trở lại, kể cả tụi bộ đội. Chắc nhà ông tôi chẳng còn người để mà giết, chẳng còn của cải chi để mà cướp nữa.

Hơn hai mươi ngày, tôi nằm liệt lào trong nhà nội. Bên ngoài súng đạn vẫn tư bề.

Hai vợ chồng bác Hậu không nở bỏ tôi lại một mình, trong lúc bác nghe ngóng và biết đa số dân Phủ Cam đã tìm đường chạy thoát được xuống Phú Lương. Bác năn nỉ tôi ráng ăn uống thêm một chút để có sức mà chạy, không lẽ con nằm đây chờ chết? Con không muốn tìm mạ con răng?

Hôm sau nữa tôi theo gia đình bác Hậu tìm đường chạy lên Phú Lương vì nghe nói lính Mỹ, lính mình đã thấy xuất hiện chung quanh đây rồi. Đi xuống ngã cầu Kho Rèn thì cầu đã bị sập, bác theo đoàn người đi hướng khác, tôi đi theo như người mất hồn, họ đi đâu tôi theo đó, tôi không còn nhớ là mình đã đi qua được những nơi đâu. Có điều tôi lấy làm lạ, trên đường chạy giặc, mỗi khi đạn pháo bắn khắp nơi mà người ta cứ gồng gánh nhau mà đi, không ai chịu dừng lại kiếm chỗ tránh đạn, người ta nói với nhau, khi mô mà có mọc chê hay đạn pháo chi đó thì bọn VC chui vô nhà dân để trốn đạn, chúng nó không ra đường để chặn bắt dân lại, vì vậy người ta cứ chạy bất kể, dưới lằn mưa đạn người ta càng chạy đi đông hơn. Ôi những người dân tội nghiệp của xứ Huế thà chết dưới bom đạn còn hơn để bị lọt vô tay quân sát nhân ác độc.

Cuối cùng thì tôi cũng về đến được Phú Lương gặp mạ và ba đứa em trai của tôi. Quá đau khổ, Mạ tôi bị phát điên khi hay tin cái chết của ba người anh và ông nội. Ít lâu sau ba tôi trở về sau một đợt hành quân nào đó của tiểu đoàn 12 Pháo Binh Phú Bài. Thấy mạ tôi như vậy, biết không thể trở lại đường Hàm Nghi, ông mướn nhà ở tạm tại Phú Lương.

Sau khi Huế được giải thoát, ba tôi nhờ bà con lối xóm cải táng Văn, ba người anh, và ông nội tôi, tang lễ được cử hành tại nhà thờ Phủ Cam do cha Nguyễn Phùng Tuệ chủ tế. Gia đình anh Văn đồng ý cho anh Văn được nằm lại trong miếng vườn nhà ông nội tôi cùng với ba người anh của tôi.

Ba tôi được giải ngũ khoảng giữa năm 69. Mạ tôi vẫn trong cơn điên loạn không thuyên giảm. Ba tôi quyết định bỏ Huế đem hết gia đình vào Long Khánh sinh sống. Nhà nội giao lại nhờ hai bác Hậu coi chừng. Nhà ở 24 Hàm Nghi (gần đường rầy xe lửa) thì bán cho ai đó tôi không rõ.

Thưa ông Liên Thành,

Đó là những cái chết oan khiên của những người ruột thịt thân yêu mà tôi phải chứng kiến tận mắt với muôn ngàn đau đớn. Trong bà con thân tộc nội ngoại hai bên của tôi có rất nhiều người bị bắt đi ở nhà thờ Phủ Cam, một số bị bắt ở nhà thờ dòng Chúa Cứu Thế. Số người bị chôn sống, mất tích lên tới 70 người. Tất cả đều là học sinh, sinh viên, thường dân, nông dân, buôn bán ở chợ An Cựu.

Sau Tết Mậu Thân, những người bà con còn lại của tôi quá đau khổ, sợ hãi, họ đã âm thầm bỏ Huế, tản mác khắp nơi, thay tên đổi họ mà sống…

Sau biến cố tháng 4 đen 75, gia đình tôi lại là những nạn nhân của lũ Cộng Sản ác độc, vô luân. Ba tôi và những đứa em trai còn lại cũng đã chết sau mười mấy năm bị đày đọa trong lao tù CS.

Đã 40 năm qua, những vết thương đó vẫn còn tươi rói trong tôi. Nỗi đau mỗi ngày một đầy. Đó là những cái chết oan khiên trong muôn ngàn cái oan khiên của người dân Huế.

Tôi là người con duy nhất trong gia đình còn sống sót sau tết Mậu Thân cũng như sau những ngày mất nước. Nay viết lại những cái chết thương tâm của những người Thân Yêu trong Gia đình tôi với tư cách là một nhân chứng và nạn nhân, để tố cáo Tội Ác của Cộng Sản, có như thế, oan hồn của ông nội và anh em tôi mới có thể siêu thoát

Tôi sẵn sàng ra làm nhân chứng trước tòa án quốc tế, cũng như xuất hiện trước các phương tiện truyền thông khi cần thiết.

Xin trình ông tên tuổi ông nội tôi, và của ba người anh bị sát hại:

Tên ông nội: Nguyễn Tín, 70 tuổi (khi bị giết).

Ba người anh: Nguyễn Xuân Kính, sinh viên y khoa, sinh năm 1942,

Nguyễn Xuân Lộc, sinh viên luật, sinh năm 1946,

Nguyễn Thanh Hải, sinh viên Văn Khoa, sinh năm 1949

Lê Tuấn Văn, sinh viên Văn Khoa, bạn của anh Hải tôi.

Nguyễn Thị Thái Hòa

Nguồn: https://hon-viet.co.uk/NguyenThiThaiHoa_NhanChungSongVuCSSatHaiNguoiDanHueTetMauThan1968.htm

 

 

Phụ bản 5.

Ngô Xuân Hùng: 

TÌM THÂY

Giữa những hỗn loạn còn nghi ngút khói sau cuộc chiến, việc cấp cứu đầu tiên cho đồng bào Huế là cứu đói, ngăn ngừa bệnh dịch, và trị liệu cấp thời cho các nạn nhân. Tiếp đó là xây dựng lại những nhà thương, trường học, nhà cửa bị hư hại vì súng và bom đạn. Sau đó mới đến việc kiểm điểm những người bị mất tích hoặc đã thiệt mạng. Sau một tháng, vẫn chưa có một thống kê nào chính thức. Tuy nhiên, Tòa Tỉnh Trưởng Tỉnh Thừa Thiên kiểm kê được gần 1,900 người đang được điều trị trong các nhà thương và ước lượng khoảng 5,800 người vẫn còn bị mất tích.

Nhóm mộ thứ nhất: những nạn nhân của cộng sản được tìm thấy ở trong sân trường ở Gia Hội, ngày 26 tháng Hai. Tổng số xác chết của nạn nhân bị chôn ở trường học Gia Hội tìm thấy lên đến 170 người.

Trong những tháng kế tiếp, lần lượt từng mồ chôn được khám phá thêm, gồm có 18 ngôi mộ tập thể, nơi chôn nhiều nhất là chùa Quảng Tự (67 nạn nhân), Bải Dâu (77), Chợ Thông (ước lượng khoảng 100), Thiên Hàm (khoảng 200), và Đông Gia (khoảng 100). Tổng cộng trên 1,200 xác được tìm thấy từ những ngôi mồ tập thể chôn gấp rút, đã không dấu kỹ.

Hơn một nữa trong số những nạn nhân vẫn còn để lai những dấu hiệu của cái chết thảm khốc: hai tay trói chặt sau lưng, khăn nhét đầy vào cuống họng, nằm cong queo với không thương tích trên người. Đó là dấu hiệu họ đã bị chôn sống. 600 nạn nhân còn lại có những vết thương, nhưng nhà giảo nghiệm không thể nói được là họ đã bị xữ bắn hay bị chết vì lạc đạn.

Những ngôi mộ tập thể thuộc nhóm thứ nhì được tìm thấy trong bảy tháng đầu tiên của năm 1969 ở quận Phú Thứ (Gò Cát – Sand Dune), Lệ Xá Tây, quận Hương Thủy – huyện Xuân Hòa, Vân Đường vào cuối tháng Ba và tháng Tư. Nhiều ngôi mộ khác cũng đã được tìm thấy tại làng Vĩnh Lộc trong tháng Năm và ở quận Nam Hòa trong tháng bảy. Những ngôi mộ lớn nhất tìm thấy trong đợt hai nằm ở Gò Cát tại ba địa điểm Vĩnh Lưu, Lê Xã Đông và Xuân Lộ, nằm giấu trong những gò cát nhấp nhô với cỏ mọc cao gần bãi biển. Ngăn chia bởi những cồn muối, xa với làng xóm, những gò cát này là địa điểm lý tưởng để chôn dấu. Trên 800 xác đã được tìm thấy ở đây.  

(ghi chú thêm của Ngô Xuân Hùng: trong số những nạn nhân này có hai vị Linh Mục – Cha Bữu Đồng và Cha Micael Bang, cùng với hai Sư Huynh Dòng Lasan).

Ở Gò Cát, tất cả các nạn nhân đều bị trói gô lại thành từng nhóm khoảng 10 đến 20 người, xếp hàng đứng trước các rãnh mới được đào bởi chính các nạn nhân, và bị xữ bắn bằng súng đại liên. Một trong những di vật quý của dân làng gò cát Phú Thứ là vỏ đạn đại liên của Nga Sô tìm thấy được trong những ngôi mộ này. Thường thì những nạn nhân ở đây bị chôn chung một mộ, chôn đến ba hay bốn lớp, nên nhận diện các nạn nhân rất khó khăn.

Nhóm mộ thứ ba tìm thấy ở suối Đá Mài (Da Mai Creek find), cũng được gọi là Phủ Cam tử lộ, tìm ra ngày 19 tháng 9, năm 1969. Ba VC hồi chánh viên đã báo cho toán quân báo của Tiểu Đoàn 101 Nhảy Dù rằng, họ đã chứng kiến cuộc thảm sát của vài trăm nạn nhân tại Đá Mài vào tháng Hai năm 1968, cách Huế khoảng mười dặm. Vùng suối Đá Mài rất hoang dã, không người ở, và gần như không có lối ra vào bằng đường bộ.

Sau khi gom lại những bằng chứng, các giảm nghiệm viên đã phân tách diễn biến xảy ra tại Đá Mài như sau:

Ngày Mồng Năm Tết ở làng Phủ Cam, nơi gần ba phần tư của 40 ngàn người Công Giáo Huế cư ngụ, một số rất đông ngươi đã tránh nạn trong Thánh Đường Phủ Cam, một cách tránh nạn rất thông thường ở Việt Nam. Trong số này, cũng có một số người không phải là Công Giáo. Một cán bộ chính trị cộng sản đến nhà thờ và đã ra lệnh cho 400 người, bằng cách gọi tên hoặc nhận diện qua cách ăn mặc (giàu có hoặc nhìn như thương gia). Tên cán bộ nói họ sẽ được đi đến “vùng giải phóng” trong ba ngày mà thôi để được cải tạo, sau đó họ sẽ được thả về.

Những người này đi bộ chín cây số về hướng Nam đến một ngôi chùa nơi cộng sản đã dựng sẵn  một bộ chỉ huy hành quân. Hai mươi người bị kêu ra khỏi nhóm, đứng sắp hàng một, lần lượt bị truy tố vì những tội đã hợp tác với chính phủ VNCH, sau đó bị bắn rồi bị chôn trong sân chùa. Những người còn lại bị buộc phải lội băng qua phía bên kia sông, và được giao lại cho một đại đội du kích, với biên bản và danh sách của những người bị bắt. Có thể là tên cán bộ chính trị có ý là những người bị bắt này sẽ “được” cải tạo rồi sẽ thả cho họ về, nhưng sau khi bàn giao, số phần của những nạn nhân này đã ra khỏi tầm tay của tên cán bộ chính trị.

Những ngày kế tiếp, bao nhiêu ngày không ai biết, những người bị bắt và người quản thúc họ đi lang thang lẩn trốn cuộc truy lùng của QLVNCH qua những làng nhỏ. Cuối cùng, cán bộ du kích cao cấp quyết định thủ tiêu nhân chứng: Họ bị dắt đi sáu cây số qua những đường núi khó đi và hẻo lánh nhất, đến suối Đá Mài. Tất cả đều bị bắn hoặc bị đập vỡ sọ, xác họ để nằm phơi trên suối nước. Tiểu Đoàn 101 Nhảy Dù QLVNCH ghi nhận rằng nơi hành quyết không thể vào được bằng xe vì đường đi không có hoặc không thể đi lọt được, chỉ vào được bằng đường bộ. Cây cối nơi này mọc rất cao, lá dầy và mọc theo lối “hai tầng”, tầng một gồm những bụi tre và cây thấp gần đất, tầng hai gồm những cây cổ thụ mọc rất cao, những nhánh lớn xoè ra như lọng dù che khuất đi những gì ở dưới. Bên dưới hai tầng lá này, ánh sánh mặt trời không chiếu sáng được. Công binh QLVNCH đã bỏ hai ngày để dùng mìn phá ngã các cây cổ thụ và tạo ra một khoảng trống lớn đủ cho máy bay trực thăng đáp xuống để đem các di hài nạn nhân về Huế. Suối Đá Mài thật đúng là nơi để hạ sát mà không cần phải chôn giấu xác nạn nhân.

Ở suối Đá Mài, cách bờ khoảng một trăm thước, người ta tìm thấy hàng trăm chiếc sọ người, hàng trăm mẫu xương vụn nằm chung lại một chổ. Những xác này đã không được chôn, nằm lộ liễu (theo truyền thuyết VN, người chết nếu không được chôn, hồn họ phải lang thang mãi và sẽ không được đầu thai qua kiếp khác). Và sau hai mươi tháng, dòng suối đã rửa sạch trắng những bộ xương này.

Nhà chức trách VNCH sau đó đã phổ biến danh sách nạn nhân bị cộng sản giết tại suối Đá Mài, 428 người đã được xác nhận. Việt cộng đã dùng lý do tiêu diệt các phần tử phản cách mạng. 428 nạn nhân được phân ra như sau: 25 phần trăm là quân đội VCNH – hai sĩ quan, một số hạ sĩ quan và binh sĩ, 25 phần trăm là học sinh và sinh viên, 50 phần trăm là công chức và viên chức quận hạt và thường dân.

Nhóm mồ tập thể thứ tư – Phú Thứ gần biễn muối, tìm ra vào tháng mười một năm 1969, gần làng đánh cá Lương Viện, mười lăm cây số về phía Đông của thành phố Huế, một nơi cũng hoang dã như suối Đá Mài. Quân đội VNCH trong tháng đó đã có chiến dịch truy lùng những cán bộ cộng sản nằm vùng. Làng Lương Viện, dân số 700, sống gần với quân đội VNCH gần hai mươi tháng trời, đã có đủ can đảm để nói lên sự thật mà họ đã giữ kín trước đó, rồi sau đó, đã dẫn QLVNCH đến những ngôi mộ chôn tập thể. Dựa trên những lơi tường thuật của dân làng Lương Viện, nhà chức trách đã ước lượng số nạn nhân tại Phú Thứ từ 300 cho đến khoảng 1,000 người.

Tuy nhiên, việc kiểm kê tổng số nạn nhân vẫn chưa được đầy đủ. Nếu tổng kê của chức trách địa phương Huế gần đúng, trên 2,000 người vẫn còn mất tích.

Sau cuộc chiến, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ước lượng tổng số nạn nhân ở Huế vào khoảng 7,600, như sau:

 

    Bị thương và tàn tật vì bom đạn:                                                                    1,900

    Thường dân bị chết vì bom đạn:                                                                      844

    Nhóm mồ tập thể thứ nhất ngay sau cuộc chiến:                                             1,173

    Nhóm mồ tập thể thứ nhì, luôn cả Gò Cát, tháng 3-7, năm 1969:                       809

    Nhóm mồ tập thể thứ ba, suối Đá Mài (quận Nam Hòa, tháng 9, 1969:               428

    Nhóm mồ tập thể thứ tư, biễn muối ở Phú Thứ, tháng 11, 1969:                         300

    Ước lượng những mồ tìm rải rác chung quanh thành phố Huế:                           200

    Số người vẫn còn mất tích:                                                                            1,946

    Tổng số nạn nhân của cộng sản ở Huế:                                                     7,600

Chú thích của tác giả - tài liệu trên đây lấy từ:

[1] SEATO: South East Asia Organization.

[2] PAVN: People's Army of Vietnam, soldiers of North Vietnam Army serving in the South, number currently 105,000.

[3] PLAF: People's Liberation Armed Force, Formerly called the National Liberation Front Army.

Ngô Xuân Hùng
nguồn:
https://hon-viet.co.uk/NgoXuanHung_ThuongNhoDen7600DongBaoHueDaBiCsVNSatHai.htm

 



Phụ bản 6.

Hoàng Phủ Ngọc Phan -2018 

VẠCH MẶT NHÂN CHỨNG GIAN NGUYỄN THỊ THÁI HÒA TRONG “PHIÊN TÒA” CỦA LIÊN THÀNH Ở MỸ

NGUYỄN THỊ THÁI HÒA ĂN GIAN NÓI DỐI.

Tôi là Hoàng Phủ Ngọc Phan, một trong bộ ba Tường Phan Xuân – luôn luôn bị tên cựu thiếu tá cảnh sát Sài gòn là Liên Thành vu cáo những tội ác giết người ghê tởm trong hơn năm mươi năm qua. Có thể nói mọi thứ vu cáo chúng tôi đều bắt đầu từ  Liên Thành rồi từ đó đồng bọn của y hùa theo. Hằng năm cứ vào dịp 30/4 và tết Nguyên Đán, họ thường tổ chức họp hành, tố cáo tội ác VC… kèm với yêu cầu quyên góp để kiếm chút tiền tiêu vặt. Đáng chú ý là dịp 30/4/2012 họ làm lễ ra mắt cái gọi làỦy ban truy tố tội ác của Đảng CSVN. Ủy ban nầy ngoài đầu nậu Liên Thành còn có thêm ba bốn thành viên là công chức hoặc sĩ quan cấp thấp của chế độ cũ. Đối tượng truy tố vẫn là Tường - Phan - Xuân, có bổ sung thêm tên cô sinh viên xinh đẹp là Đoan Trinh. Không biết Liên Thành kiếm đâu ra nhân chứng là một bà xưng là cán sự điều dưỡng và xưng tên là Nguyễn Thị Thái Hòa nhưng bà này lại xin dấu xin dấu địa chỉ ở Mỹ- vu khống Hoàng Phủ Ngọc Phan và Đoan Trinh đã nổ súng tàn sát cả nhà bà ta từ người già tới trẻ em ở  khu vực quanh nhà thờ Phủ Cam.Bà ta dựng ra một câu chuyện rất dài có dặm thêm những tình tiết cho có vẻ y như thật.Theo lời bà ta thì:

 

“Chính tên Hoàng Phủ Ngọc Phan bắn chết 3 anh em ruột: Nguyễn Xuân Kính (sinh 1942, Y khoa Huế, bị bắn chết tại nhà ông nội), Nguyễn Xuân Lộc (sinh 1946, sinh viên Luật Huế, bị bắn chết tại nhà ông nội), Nguyễn Thanh Hải (sinh 1949, sinh viên Văn khoa Huế, bị bắn chết tại trường Văn khoa). Giết các cháu xong, Phan còn đang tâm bắn chết cả ông nội của 3 sinh viên này là cụ Nguyễn Tín, 70 tuổi. Sau khi bắt sinh viên Lê Tuấn Văn (sinh viên Văn khoa Huế, là bạn của sinh viên Hải) đào huyệt tại vườn sau nhà cụ Nguyễn Tín để chôn cụ và 3 người cháu của cụ (xác sinh viên Hải đã được em gái là sinh viên Ban Cán sự điều dưỡng Nguyễn Thị Thái Hòa đưa về đây), tên Hoàng Phủ Ngọc Phan hành quyết nốt sinh viên Văn. (Mậu Thân Huế. Câu Chuyện Của Nguyễn Thị Thái Hòa. Word”.

 

Tôi đã phản bác những lời vu cáo ấy một lần trong bài trả lời phỏng vấn của tạp chí  Sông Hương số tháng 7.2012 ở Huế.Nay lại thấy bài vu cáo ấy tái xuất hiện trên một số trang mạng nước ngoài.Vậy nay tôi cũng phải nói lại cho rõ.Câu chuyện bà Thái Hòa kể về tôi và cô Đoan Trinh là hoàn toàn bịa đặt. Sự thực chúng tôi không hề giết ai cả.Trong chiến dich Mậu Thân chúng tôi chỉ hoạt động trong một số khu vực rất hạn chế trong Thành nội, không được phép rời địa bàn và càng không thể qua bên kia sông Hương để gây án ở vùng Phú Cam thuộc Quận III.Điều này đã được chính Liên Thành xác nhận qua một trích đoạn trong bài viết  “ Trịnh Công Sơn và những hoạt động nằm vùng được Liên Thành công bố trên mạng và in thành sách ở Mỹ.Trong mục đích vu cho Trịnh Công Sơn là Việt Cộng nằm vùng. Liên Thành đã viết:

“ 1- Trịnh Cung và một vài người đã nói trong Mậu Thân 1968 Trịnh Công Sơn bị cộng sản giết hụt.

Ai giết hụt TCS? Hoàng Phủ Ngọc Tường? Hoàng Phủ Ngọc Phan? Nguyễn Đắc Xuân?

Ba tên ác quỷ này khi đó đang ở cánh Bắc của trận đánh Huế. Tức vùng chiến trận Quận I và Quận II. Cả ba đang say sưa lấy máu tươi, giết đồng bào vô tội, làm gì có thì giờ để mà sang quận III, nơi TCS trú ngụ? Mà nếu có qua được Quận III chăng nữa, thì cũng chỉ để ôm nhau vui mừng, cùng hát bài: “Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng”. Vì TCS với bọn này “vừa là đồng chí, vừa là anh em mà”Tôi khi đó là Phó Trưởng Ty CSĐB, và là Quận Trưởng quận III, vùng TCS trú ngụ. Vì vậy tôi biết rõ chuyện nầy lắm, xin đừng bịa đặt.”

       Trong bài viết nói trên,Liên Thành đã xác nhận chắc như đinh đóng cột rằng chúng tôi (Tường-Phan-Xuân) không thể có mặt ở Quận III ( hữu ngạn,vùng Phủ Cam).Thế nhưng trong “ phiên tòa Tố cáo tội ác cộng sản” và trong vai trò Trưởng Ban,y lại sử dụng nhân chứng vu khống chúng tôi tàn sát cả nhà bà ta ở  vùng Phú Cam? Ấy là vì Liên Thành nói dối nhiều quá nên bộ nhớ kém cõi của y quá tải,không thể kiểm soát được.

 Xin nói thêm,chúng tôi hoàn toàn không quen biết gì với cái bà xưng là Thái Hòa.Việc bà ta làm chứng gian chắc chắn là nằm trong kịch bản của Liên Thành. Bà này đã xưng tên nhưng tại sao lại xin dấu địa chỉ ở Mỹ-chẳng lẽ sợ bị Việt Công khủng bố,trả thù? Chắc chắn không thể có chuyện đó.Tôi đoán  rằng cả cái tên Nguyễn Thị Thái Hòa cũng không có thực nên không thể cho biết địa chỉ.Lỡ có nhà báo nào hiếu sự muốn tới nhà bà để tìm hiểu thêm thì dễ bị lộ chân tướng.

 

VỀ “THẰNG BÁN TƠ LIÊN THÀNH”

Truyện Kiều có câu:

“ Hỏi ra sau mới biết rằng

Phải tên xưng xuất là thằng bán tơ”

Trong Truyện Kiều có hình ảnh tháp thoáng của một thằng bán tơ nào đó gieo họa làm gia đình Kiều tan nát,cuộc đời Kiều ba chìm bảy nổi.Ở Huế cũng có thằng bán tơ gian ác gấp bội,công khai gieo họa cho hàng trăm gia đình,hàng ngàn người.Thằng bán tơ này tên là Liên Thành.

     Từ trước kia cho  đến hôm nay,tôi chưa hề gặp,chưa hề biết mặt Liên Thành và ngược lại.E rằng nếu đi ngoài đường chưa chắc chúng tôi đã nhận ra nhau. Sự thật không phải từ sau chiến dịch Xuân Mậu Thân mà ngay từ mùa hè năm 1966 Liên Thành đã tham mưu cho bọn người dẹp loạn miền Trung của Thiệu-Kỳ-Loan công bố tên anh em chúng tôi trên đài phát thanh Huế,bắt chúng tôi ra trình diện.Nhưng chúng tôi không ra đầu hàng mà thoát ly ra vùng giải phóng.Từ đó đến nay đã hơn 50 năm,y không ngừng vu cáo cho anh em Tường-Phan những tội ác rỡn da gà.Sau này tìm hiểu thì có thể tóm tắt vài nét về  con người Liên Thành như sau:

    Y là cháu nội của Kỳ ngoại hầu Cường Để.Gia đình có mấy anh em đều sở trường môn võ Nhật (Judo).Bố của y là ông Tráng Cữ tức trợ Cữ,một thầy giáo, theo đảng Đại Việt,có tham vọng làm chính trị ở Huế.

    Liên Thành có thể có bằng Tú Tài I – ( Tương đương lớp 11-lên lớp 12 bây giờ) nhờ đi thi hệ thí sinh tự do kiểu lính tráng. (Móc quả lựu đạn MK2 để trước mặt rồi lấy tài liệu coi thoải mái.Giám thị phòng thi không dám đụng đến).

    Gia nhập binh chủng Địa phương quân tại Huế để khỏi ra trận.

    Khi các lực lượng quân đội Sài gòn ra đàn áp phong trào đấu tranh của đồng bào Phật tử Huế,y được người của đảng Đại Việt tiến cử làm tay chân cho hung thần Nguyễn Ngọc Loan.Từ đó y nhanh chóng leo lên đến cấp bậc Thiếu tá cảnh sát.Y làm mưa làm gió ở Huế đến năm 1974 thì bị cấp trên cách hết chức tước – có lẽ do biết rõ bộ mặt thật và những thủ đoạn xấu xa của y ở Huế.

    Bắt và thủ tiêu thầy học là nhà thơ Ngô Kha. Chặt đầu người bạn từng ăn cùng mâm,nằm cùng chiếu là Hồ Đăng Lương .

    Có người nói rằng Liên Thành từng theo đuổi cô em gái của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là Trịnh Vĩnh Thúy nhưng không thành công. Từ đó y coi nhóm TCS như kẻ thù.Sau này Vĩnh Thúy lấy Ngô Kha nên y giết Ngô Kha, bách hại TCS và nhóm bạn bè chung quanh anh để trả thù.Cái này cũng giống như trong truyện “ Cô gái Đồ Long” có tên Hỗn nguyên Phích lích thủ Thành Khôn trả thù Dương Phá Thiên và phá hoại Minh giáo để trả mối hận tình thời trai trẻ.Tuy nhiên đây chỉ là loại thông tin quanh bàn cà phê để tham khảo chứ không thể xem là chính luận.

    Từ ngày di tản qua Mỹ,Liên Thành không ngừng đánh phá Phật giáo Việt Nam ở trong và ngoài nước. Hằng năm cứ vào dịp 30.4 hoặc Tết âm lịch.Liên Thành thường bày trò tố cáo tội ác VC,nhất là Tường-Phan-Xuân để bán sách và quyên tiền.

    Hoạt động chính trị gần đây nhất của Liên Thành là cùng một nhúm quân dân cán chính vô danh tiểu tốt của chế độ cũ thành lập cái gọi là Đảng Ngô Đình Diệm để lăm le chờ thời cơ về nước lật đổ chế độ Cộng sản.Điều đáng chú ý là trong cái  đảng nầy  lại không hề có thành viên nào thuộc gia đình họ Ngô thèm tham gia.

    Ở Mỹ,Liên Thành tiếp tục thủ đoạn ngậm máu phun người,vu khống vô số người khác là Việt Cộng ,nhất là những người  kinh doanh có máu mặt để lấy tiền bảo kê gọi là “ quỹ chống Cộng” gì đó.Từ năm 2011-2012 y nhiều lần lên đài phát thanh vu cáo tội làm gián điệp Cộng sản cho ông Trần Đình Minh,một Việt kiều  có hai tiệm rượu ở California.Lần này y bị hố nặng vì ông Trần Đình Minh phản kích tới bến, kiện ra tòa án Mỹ.Ngày 9.10.2014,tòa án Tối cao California công bố án lệnh xử phạt Liên Thành và đồng bọn tội vu cáo,buộc phải bồi thường cho ông Trần Đình Minh 200.000 USD. Không có tiền nộp phạt,Liên Thành phải trốn chui trốn nhủi,lẩn tránh như chuột để xù nợ.Đây là những thông tin cuối cùng mà chúng tôi nhận được về hành tung của Liên Thành.

 

Nhật báo Văn Hóa ở California ngày 27.5.2015 đã đăng bài bình luận có tính cách tổng kết về Liên Thành, có đoạn như sau:

“Sống trong một quốc gia dân chủ, thượng tôn pháp luật, thế mà ông cựu thiếu tá chẳng biết luật lệ là gì. Tha hồ vu cáo người quốc gia, đến khi bị truy tố, nhận trát toà Hoa Kỳ đòi ra đối chất thì lại lẩn tránh, chốn nhủi, không dám ngẩng mặt nhìn phápluật.  Thử hỏi vào thời loạn ly bốn mươi năm trước, ở một tỉnh lẻ như Huế, mà ông chụp mũ Việt Cộng bừa bãi như ông đang hành xử tại Hoa Kỳ, thì chắc chắn số lượng người ông giết hay bỏ tù hẳn phải cao ngất trời, và hiển nhiên những người này đều là lương dân vô tội. Như sự việc vừa xẩy ra với ông Trần Đình Minh. Thời ở Huế ấy, ông vừa một tay độc quyền nắm “luật pháp quốc gia”, một tay cầm súng cô-bồi, có gì ông chẳng làm cho thoả thú tính trong người ông ?!

 

   Sau cùng,tôi có lời khuyên bà Thái Hòa nào đó rằng đừng dại dột đi theo Liên Thành làm chứng gian vu cáo người khác. Coi chừng bị phạt thêm 200.000 USD nữa đấy.

 

HOÀNG PHỦ NGỌC PHAN

Nguồn: https://huengaymoi.com/Goc-Chia-se/VACH-MAT-NHAN-CHUNG-GIAN-NGUYEN-THI-THAI-HOA-TRONG-%E2%80%9CPHIEN-TOA%E2%80%9D-CUA-LIEN-THANH-O-MY

 

 

Phụ bản 7  

NGUYỄN PHÚC LIÊN THÀNH: 

THƯ GỬI HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG

LIÊN THÀNH

HỌC TRÒ MÔN VIỆT VĂN CỦA THẦY HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG TẠI TRƯỜNG QUỐC HỌC HUẾ.

-PHÓ TRƯỞNG TY CẢNH SÁT ĐẶC BIỆT TY CẢNH SÁT QUỐC GIA THỪA THIÊN –HUẾ VIỆT NAM CỘNG HOA 1966-1969)

-CHỈ HUY TRƯỞNG BỘ CHỈ HUY CẢNH SÁT QUỐC GIA THỪA THIÊN HUẾ VIỆT NAM CỘNG HÒA 1969-11/1974

GỞI  : THẦY HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG

NGUYÊN GIÁO SƯ VIỆT VĂN TRƯỜNG QUỐC HỌC –HUÊ.

NGUYÊN TỔNG THƯ KÝ LỰC LƯỢNG LIÊN MINH DÂN TỘC DÂN CHỦ HÒA BÌNH.

NGUYÊN CHÁNH ÁN TÒA ÁN NHÂN NHÂN VIỆT CỘNG TẾT MẬU THÂN 1968.

Thưa Thầy

Tôi vừa đọc được bức thư trăng trối của thầy viết vào ngày 1 tháng 2 năm 2012 với tựa đề

“Lời cuối cho câu chuyện quá buồn.”

Thưa thầy,

Câu chuyện quá buồn của  thầy quả tình buồn thật, bởi lẽ một đời thầy đã ngu muội đi theo một đảng cướp gọi là đảng cướp cộng sản Việt Nam đã gây bao nhiêu oan khiên tội lỗi, bao nhiêu khổ đau cho toàn dân tộc Việt Nam  trên 64 năm nay.

Mậu Thân 1968 chính thầy, tên tội đồ Hồ Chí Minh, và Bộ Chính Trị đảng cộng sản Việt Nam  đã phạm vào hai tội ác tày trời của nhân loại đó là:  Tội Ác Chiến Tranh và Tội Ác Diệt Chủng. Khi bọn chúng và thầy đã gây nên cuộc tắm máu đồng bào vô tội Huế với tổng số 5327 thường dân vô tội Huế bị sát hại bằng cách chôn sống, hoặc dùng cuốc xẻn đập vào đầu nạn nhân.

Đầu thư, thầy nói rằng: Năm nay thầy đã 81 tuổi, những gì thầy dã nói ,đã làm rồi trời đất sẽ chứng nhận cho thầy để rồi chẳng mấy hồi nữa, thầy phải về trời và bằng tâm về cõi phật.

Trong bức thư gồn 2 trang của thầy gởi ra từ đầu đến cuối thầy đã chối bỏ là cuộc thảm sát 5327 thường dân vô tội Huế thầy không nhúng tay  vào , thầy vô can vì thầy không có mặt ở Huế.

Thưa thầy tôi nghĩ rằng “Lời cuối cho câu chuyên quá buồn” của thầy không phải là lời cuối, và cũng không phải là câu chuyện quá buồn, mà là câu chuyện quá kinh khủng của một kẻ sát nhân đã nhúng tay vào máu, thảm sát  5327 thường dân vô tội tại Huế vào Tết Mậu Thân 1968. Bởi vì thầy đã có mặt tại Huế trong suốt 22 ngày tức 624 giờ  mà thầy và đám Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn thị Đoan Trinh, Hoàng Lanh, Tống Hoàng Nguyên, Bảy Lanh, Lê Tư Minh , Lê Chưởng, Trần văn Quang tàn sát đồng bào Huế theo lệnh của tên Ác quỷ Hồ Chí Minh, và bộ chính trị đảng cướp việt Nam trong một chiến dịch gọi là “Bạo lực cách mạng “ hay “Bạo lực đỏ”,Vì dân Huế không hưởng ứng lời kiêu gọi của ác quỷ Hồ Chí Minh và đảng cướp cộng sản Việt Nam “Tổng Nỗi Dậy” tại Huế.

Thưa Thầy “Lời cuối câu chuyện buồn” không thể chấn dức vào lời cuối được vì cho dù thầy có còn sống hay chết, thầy và đám sát nhân , ác quỷ, tội đồ dân tộc cũng phải ra trước vành móng ngựa của một tòa án Quốc tế để tạ lỗi trước vong vinh của 5327 thường dân vô tội Huế dã bị thảm sát, và cũng phải đền tội ác theo luật pháp quốc tế hiện hành. 

Thưa thày,

Trong bức thư “Lời cuối cho Câu Chuyện Quá buồn” thầy có nói:

“Những kẻ luôn đem tôi ra làm mồi nhậu cho dã tâm của họ như ông Liên Thành và bè đảng của ông ta”

Thưa thầy, Tôi Liên Thành  Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Và Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa. Vào thời điển 22 ngày máu lửa tại Huế tôi là phó trưởng Ty Cảnh Sát  Đặc Biệt Ty Cảnh Sát Quốc Gia Thửa Thiên Huế, và vì nhu cầu an ninh khi đó tôi được Trung Tá Phan Văn Khoa Tỉnh Trưởng Tỉnh Thừa Thiên, Thị Trưởng Thị Xã Huế  bổ nhiệm tôi kiêm nhiện Quận Trưởng Quận III thị xã Huế.Trong suốt thời gian đó, lực lượng Cảnh Sát do tôi chỉ huy, phối hợp với Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và Đồng Minh [ USMC Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ] phản công đẩy lui lực lượng cộng sản Chính quy, du kích và đám Việt gian cọng sản của thầy ra khỏi thành phố Huế.Và đúng 10 giờ sáng ngày 26/2/1968  lá Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hoa phất phới tung bay trên Kỳ Đài Ngọ Môn. Tôi là một chứng nhân và cũng là nột tác nhân trong 26 ngày đó.

Sau đó, theo lệnh Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia  Việt Nam Cộng Hòa, tôi, Liên Thành Trưởng Ty Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên Huế  người đứng đầu Ủy Ban Điều Tra vụ tàn sát 5327 thường dân Huế bị thảm sát trong đó có  204 đồng bào bị chôn sống tại Bãi Dâu, và 1200 người bị bắt đi mất tích.

Ủy Ban điều tra dã thu thập hằng trăm lời khai của thân nhân nạn nhân bị chôn sống tại Bãi Dâu qua quyết định của ông Chánh Án Hoàng Phủ Ngọc Tường của Tòa án Nhân Dân. Tòa án nầy được Lê Chưởng, Chính Ủy mặt trận Trị Thiên cho lệnh Tống Hoàng Nguyên, Bảy Lanh, Hoàng Kim Loan thành lập tại Bãi Dâu. Theo lời khai của Thành Ủy Viên Thành Ủy Huế, Hoàng Kim Loan [bị lực lựng Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên Huế bắt cào tháng 5/1972] thì chính  hắn là người đề cử Tổng Thư Ký Lực Lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình  ông Hoàng Phủ Ngọc Tường ngồi vào ghế Chánh Án Tòa Án Nhân Dân tại Bãi Dâu.

Đây là một Ủy ban điều tra tội phạm tàn sát đồng bào vô tội Huế vào Tết Mậu Thân 1968, của Chính Phủ VIệt Nam Cộng mà tôi là trưởng ban của ủy ban điều tra nây, chứ không phải như thầy viết trong thư là:

“Những kẻ luôn đem tôi ra làm mồi nhậu cho dã tâm của họ như ông Liên Thành và bè đảng của ông ta”

Cho đến ngày giờ nầy của tháng 2 năm 2018, thầy vẫn là tội đồ của dân tộc vẫn là kẻ phạm tội ác chiến tranh và tội ác Chiến Tranh và Tội Ác Diệt Chủng.

Cho dù thầy còn, hay mất dưới 18 tần địa ngục[chứ khong phải như thầy nói thầy sẽ về cõi Phật, không được đâu thầy], thân nhân, và vong linh của trên 5327 thường dân vô tội Huế và 1200 người bị mật tích sẽ cùng với tôi đưa thầy và bè đảng cướp của thầy ra toàn án Quốc tế về hai tội trạng trên để trả lại Công Bằng và Cộng Lý cho Nạn Nhận Vô Tội bị thầy và bè dảng của thầy giết chết trong Mậu Thân Tại Huê.

Cô Hoàng Dạ Thi

Thưa Thầy,

Cô Hoàng Dạ Thi hiện đang sống yên vui tại thành Phố Huntington Beach, Orange County, Nam Calif .USA. gần khu Little Sài Gon. Thủ Đô của Người Việt Tỵ Nạn chúng tôi.

Mặc dầu chúng tôi biết rõ Cha của cô ta là ai, nhưng chúng tôi, những người Việt Quốc Gia tỵ nạn đảng cướp Cộng sản Việt Nam,chúng tôi  đối xử với cô trong tình thương mến của những người Việt Nam đồng hương sống xa quê hương. Xin Thầy yên tâm.

Chúng tôi là những người Việt Quốc Gia sống trong đạo đức, nhân ngĩa không như những lời thầy đã trả lời qua cuộc phỏng vấn với Ông Burchett trong bô phim Vietnam Television rằng:

“Lý do thứ hai, những ngày cuối cùng khi chúng tôi rút ra thì có nhiều người đã tham gia cách mạng. Những người nầy theo lực lượng cách mạng vào rừng sâu sau cuộc tần công Tết Mâu Thân và khi đó kẻ thù trở vào thành phố, chúng đã giết những người thân của những gia đình nầy, rồi đem chôn trong các hần tập thể”.

Tôi và mọi người thật không ngờ thầy đã tráo trở, nói láo mà không biết hổ thẹn với lươg tâm của mình.

Đạo đức tối thiểu của một nhà giáo ở đâu hỡi thầy?

Thư cũng đã dài. Xin chào Thầy

Liên Thành

Cell  Phone: 626-257-1057.   Email: ubtttadcsvn@gmail.com

                                                  

Xin Đồng bào trong nước và hải ngoại đọc kỷ những lời phát biểu của Hoàng Phủ Ngọc Tường dưới đây qua các buổi phóng vấn của ký giả , báo, đài, quốc tế, để minh xét Hoàng phủ Ngọc Tường có mặt trong 22 ngày thảm sát tại Huế, Mậu Thân 1968 hay không.

CUỘC PHỎNG VẤN CỦA PHÒNG VIÊN THỤY KHÊ ĐÀI RFI VỚI HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG VÀO THÁNG 7/1997 TẠI PHÁP

Nhân dịp Hoàng Phủ Ngọc Tường được sang Pháp vào tháng 7/1997, phóng Viên Thụy Khê dài RFI (Radio France International) đã dành cho Hoàng Phủ Ngọc Tường một cơ hội để trình bày quan điểm liên quan đến Tết Mậu Thân và nhất là để biện minh cho việc Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không có mặt tại Huế, đồng thời ông Tường cho hay những người tố cáo ông là một tên đồ tể Mậu Thân ở Huế thì đó là một sự bịa đặt mang ý định vu khống hoàn toàn.

“Sự thật là tôi đã từ giã Huế lên rừng tham gia kháng chiến vào mùa hè năm 1966 và chỉ trở lại Huế  sau ngày 26 tháng 3 năm 1975 .

Như thế nghĩa là trong thời điểm Mậu Thân 1968, tôi không có mặt ở Huế”.

Sự thật thì thế nào?

Từ phát biểu trên của ông, cho tôi được phép hỏi, vậy thì việcông  ngồi ghế chánh án xử 204 tại trường Gia Hội, trong đó có những học trò của mình,những bà quả phụ, những em cô nhi mang tội làm sở Mỹ tại căn cứ Mỹ Phú Bài là làm  cho CIA, rồi bản án được thi hành ngay lập tức bằng cách chôn sống ngay trong sân trường.

Chính miệng ông đã xác nhận rằng ông có mặt tại Huế Tết Mậu Thân, thời điểm ông xác nhận điểu này là vào năm 1982, thời điểm mà bọn Việt Cộng nằm vùng hãy còn hãnh diện với những thành tích cách mạng đấu tranh giai cấp giết người.

Và đây nữa lời của Hoàng Phủ Ngọc Tường năm 1982

“Tôi đã đi trên những cái đường hẻm, mà ban đêm tôi tưởng là bùn thì tôi mở ra, bấm đèn lên, thì thấy toàn là máu lầy lội như vậy. Và đó là cả khu phố bị bom Mỹ đã giết thì cái số đó nhất là trong những ngày cuối cùng thì chúng tôi rút ra và nó đã thâu lại và đem đi chôn…”

Tuy nhiên, khi được Thụy Khê hỏi về những lời Hoàng Phủ Ngọc Tường tuyên bố trên đài truyền hình Mỹ, Hoàng phủ Ngọc Tường chối thế này:

“Hồi đó ông Burchett và đoàn làm phim lịch sử truyền hình tới Huế, chọn tôi để chất vấn về chuyện tang tóc ở đây. Lâu rồi trả lời ứng khẩu thôi. Tôi không nhớ thật cụ thể những điều tôi đã nói và càng không có dịp xem lại chuyện phim như nó được chiếu ở ngoại quốc.”

(Trích Thụy Khuê, “Nói chuyện với Hoàng Phủ Ngọc Tường về biến cố Mậu Thân ở Huế” RFI ngày 12/7/1997).

Xin hỏi, quý vị có thể chấp nhận lời biện hộ này của tên đồ tể hay không?

Những chuyện bao che, dối trá của Hoàng Phủ Ngọc Tường và đồng bọn trở thành sự trơ trẽn đáng xấu hổ khi chúng ta cùng nhau nghe lại cuộc phóng vấn Hoàng Phủ Ngọc Tường trong bộ phim tài liệu 13 tập nhan đề: “Việtnam: Television History”.

Trong bộ phim này, Hoàng Phủ Ngọc Tường xuất hiện như một tên đao phủ sắt máu, ngôn ngữ hận thù, thái độ của một người Cộng sản chính hiệu, hơn cả người cộng sản có thẻ đảng.

Hoàng Phủ Ngọc Tường kể rằng chính anh ta chứng kiến cảnh dội bom của Mỹ vào một bệnh viện gần chợ Đông Ba làm chết và bị thương 200 người mà đêm tối anh ta dẫm lên đám đất bùn hòa lẫn máu người chết.

Hoàng Phủ Ngọc Tường đương nhiên xác nhận ông có mặt ở Huế. Ông ta đã lộ nguyên hình.”

Cuộc Phỏng vấn của Ông Burchett với Hoàng Phủ Ngọc Tường vào 1982 tại Huế:

 Hỏi:

– Ông có thể mô tả biến cố nổi dậy ở Huế, đặc biết liên quan đến vụ thảm sát. Ở đậy xin đề nghị ông trả lời cho biết những gì xảy ra ở Huế. Có những vụ trả thù, đàn áp?

Hoàng Phủ Ngọc Tường:

– Ông muốn nói đến vụ thảm sát mậu Thân ở Huế? Đó là một chiến công vĩ đại của nhân dân Huế, nhưng nhân dân Huế đã phải trả một giá đắt cho chiến thắng nầy. Đó là sự trả thù chưa từng thấy của Mỹ và Ngụy sau đó. Vì thế nhân dân Huế phải trả giá đắt nhất so với các thành phố khác của chúng tôi. Cũng chỉ vì ở đây người Mỹ đã chịu sự tổn thất nặng nề về sinh mạng, về vật chất và chính trị tại Huế.

Sự trả đũa vô cùng khủng khiếp. Nhưng tôi nghĩ rằng chúng tôi đã tùng sống qua các thời kỳ chiến đấu chống lại Pháp, và thời chiến tranh chống lại người Mỹ. Tôi nghĩ rằng bọn chủ nghĩa thực dân mới thì khôn hơn bọn thuộc địa cũ. Bọn thuộc địa cũ thì chơi franc jeu hơn là thực dân mới. Nói khác, bọn chũ nghĩa thực dân mới thường tàn bạo hơn thực dân cũ. Và điều đó là chắc chắn đúng như vậy trong suốt cuộc tổng công kích Mậu Thân vừa qua.

Bởi vì tội ác do Mỹ tạo ra được toàn thể thế giới quan tâm, chúng chuyển tất cả tội ác của chúng và đổ lỗi cho những người làm cách mạng chống lại nhân dân của họ. Tôi ám chỉ chúng đã dùng vụ thảm sát như một bửu bối đặc biệt để bôi nhọ cách mạng Việt Nam trong cuộc hòa đàm Paris.

Đây là điều tôi muốn nêu rõ vì tôi biết như là một nhân chứng. Tôi sẽ nói cho ông mọi sự một cách khách quan nhất.

– Thứ nhất riêng những người bị giết, có nhiều người đã bị giết chắc chắn là do chúng tôi phải thi hành bản án tử hình. Bởi khi chúng tôi đến nhà họ, họ đã bắn đến cùng vào những chiến sĩ của chúng tôi, làm bị thương khi chúng tôi kêu gọi họ đầu hàng. Vì thế những người nầy đã bị chúng tôi bắn chết tại chỗ. Trong đám những người nầy có tên Phó Tỉnh Trưởng lúc đó hắn đang sống tại Huế.”

Ghi chú của tác giả Liên Thành:

Hoàng Phủ Ngọc Tường nói:

“đồng bào Huế bị thảm sát trong Mậu Thân là sự trả thù chưa từng thấy của Mỹ và Ngụy.”

Sự thật thì như thế này:

Đồng bào Huế đã bị thảm sát là sự trả thù chưa từng thấy của bọn cộng sản và bọn nằm vùng. Tại sao ư? Tại vì dân chúng không hưởng ứng cuộc tổng nổi dậy nên các ông căm thù mà giết họ, vì dân chúng Huế sợ bầy quỷ đỏ các ông, các ông đi đến đâu thì dân chúng bỏ chạy đến đó. Họ chạy vắt chân lên cổ, họ chạy dưới làn mưa đạn, càng có mưa đạn thì họ càng tràn ra ngoài đường để chạy, vì họ biết rằng đó chính là lúc các ông phải núp trốn, họ bỏ lại tất cả nhà cửa, của cải quý giá, chỉ để thoát thân. Mà họ chạy đi đâu? Họ chạy đi tìm vòng tay che chở của người lính VNCH, người lính Mỹ. Từng đoàn người tỵ nạn kéo nhau chạy, khi họ thấy được bóng dáng người lính VNCH, thì, nói theo giọng người Huế thường nói, “họ mừng còn hơn cha chết sống lại” hay là “mừng hơn mạ đi chợ về”. Xin nghe một vài câu nói và cử chỉ của dân Huế đối với người lính Việt Nam Cộng Hòa:

Tại Quận I vào sáng mùng 2 Tết:

“Chạy mau đi bà con ơi! Răng Việt Cộng nhiều rứa! Chạy mau đi, chạy về hướng nớ, có lính của Sư Đoàn I, có ôn Tướng Trưởng ở đó”.

Tại vùng Đập Đá, Vĩ Dạ, Gia Hội, Tiểu Đoàn 21 và 39 Biệt Động Quân đổ quân tái chiếm vùng Gia Hội, Quận II. Họ từ Đập Đá ngang qua thôn Vĩ Dạ, vượt sông Hương qua Cồn Hến, qua Gia Hội. Đồng bào các vùng đó bất chấp hiểm nguy bật chấp súng đạn của Cộng Quân họ tuôn ra đường la lớn:

 “Lính mình bà con ơi! lính Biệt Động Quân bà con ơi! Sống rồi bà con ơi!”

 Dân chúng nhào ra ôm lấy người lính Biệt Động Quân, họ vui mừng xúc động đến chảy nước mắt:

“Răng mà đến chậm rứa, tụi Việt Cộng giết dân mình nhiều  quá”.

 Đồng bào dúi vào tay những người lính Biệt Động Quân những đòn bánh tét, những gói mứt nhỏ, và dặn dò:

“Tụi hắn đông lắm, mấy en cẩn thận nghe”.

Hoàng Phủ Ngọc Tường, tôi tin rằng ông biết thừa biết đây là sự thật, và mong rằng giờ đây ông phải thấy thẹn với chính ông và người dân Huế, xin ông đừng nói láo nữa, không ai tin ông đâu.

Riêng về chuyện ông Phó Tỉnh Thừa Thiên bị lực lượng Hoàng Phủ Ngọc Tường thì hành bản án tử hình vì khi bọn cộng sản đến nhà họ, họ đã bắn đến viên đạn cuối cùng làm cho người của ông bị thương nên các ông phải thi hành bản án tử hình là bắn chết họ tại chỗ. Sự thật ra sao?

Hoàng Phủ Ngọc Tường, người mà ông nói là tên Phó Tỉnh Trưởng bị các ông xử tử tại nhà, người đó không phải là Phó Tỉnh Trưởng, mà là ông Trần Đình Thương, Phó Thị Trưởng Thị xã Huế. Ông ta không có súng lấy gì mà chống cự và bắn chết đồng chí của ông?

Sự thật là: tư thất của ông Phó Thị Trưởng Thị xã Huế ở ngay ngã ba Nguyễn Huệ-Nguyễn Hoàng, trước nhà ông ta là vuờn hoa Bến Ngự. Sáng mùng 2 Tết Mậu Thân, súng nổ tứ bề ở vùng Bến Ngự, Ông Phó Trần Đình Thương vì không nắm vững tình hình bên ngoài, cỡi xe Honda phóng chạy ra khỏi nhà có lẽ để chạy về Tòa Hành Chánh Tỉnh, hoặc định chạy trốn một nơi nào đó.

Xe vừa ra khỏi cổng thì bị hằng lọat đạn Ak của bọn Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn thị Đoan Trinh bắn vào người. Cả xe và người ông Trần Đình Thương văng qua bên kia đường nơi vuờn hoa Bến Ngự. Ông Phó Thương nằm gục chết trên chiếc xe Honda. Hơn 15 ngày sau, khi tình hình khu vực quân III tạm ổn, gia đình của ông ta mới đem đuợc thi hài của ông ta vào nhà, khi đó thi thể đã sình thối.

Đó là sự thật, rất nhiều người sống ở vùng Bến Ngự đã thấy ông Phó Trân Đình Thương nằm gục chết trên chiếc xe Honda, lưng mang nhiều vết đạn, xác bị bỏ hoang nhiều ngày nên đã sình thối.

Hãy nghe Hoàng Phủ Ngọc Tường nói:

“Trong một ít trường hợp một số bị giết vì đã từng tra tấn các cư dân gây cho toàn thể gia đình bị tù tôi và đầy ra Côn Đảo. Chính nhân dân căm thù quá lâu, họ bị tra tấn gia đình họ phải trả thù. Vì thế khi cách mạng bùng lên và lấy lại được thế kẻ mạnh, nhân dân bùng lên và đi lục soát tìm cho ra những tên bạo nguợc nầy để trừ khử chúng như trừ khử những con rắn độc, mà nếu như để chúng sống sót, chúng sẽ tiếp tục gây ra tội ác hơn nữa trong chiến tranh.”

Hình ảnh Cách Mạng giết rắn độc

“trừ khử chúng như trừ những con rắn độc, mà nếu như để chúng sống sót, chúng sẽ tiếp tục gây ra tội ác hơn nữa trong chiến tranh”. Lời Hoàng Phủ Ngọc Tường

“Mặc dầu chính sách của chúng tôi nhằm cải tạo và không bao giờ giết bất cứ ai đã đầu hàng chúng tôi, song khi dân trong thành phố đã nắm công lý trong tay của chính họ, thì các cấp lãnh đạo cách mạng của chúng tôi không còn cóp thể kiểm soát dân chúng trong suốt thời kỳ đang diễn ra, nhưng tôi phải nói cho ông biết rằng, mỗi một tên bị giết, thì chúng đã giết ít nhất mười người khác trong các gia đình bị nạn.”

“Chúng giết mười người bây giờ giết một người bọn chúng, cái giá đó là rất nhẹ. Giết một người là công bằng. Nợ máu đó, căm thù và thi hành bản án như vậy là rất nhẹ và công bằng”.

Ghi chú của tác giả:

Hoàng Phủ Ngọc Tường độc ác, tàn bạo có thua gì tên lãnh tụ Pol Pot của  Khmer đỏ ?

5327 thường dân Huế bị giết chết, và 1200 người bị mất tích là những kẻ đã từng tra tấn, gây cho toàn thể gia đình đám Việt Cộng nằm vùng bị tù tội và đày ra Côn Đảo sao?

Hai trăm lẻ bốn người bị ông tòa Hoàng Phủ Ngọc Tường chánh án Tòa Án Nhân Dân tại trường học Gia Hội ban cho bản án chôn sống chẳng lẽ họ là những kẻ đã từng tra tấn dân chúng gây cho dân chúng bị tù tội và đày ra Côn Đảo sao?

Thực chất 204 sinh mạng này là ai? Họ là những người đàn bà, những góa phụ, những trẻ nhỏ đi  quét dọn nhà cửa, giặc áo quần cho lính Mỹ tại căn cứ Phú Bài, ông tòa Hoàng Phủ Ngọc Tường kết tội cho họ là tay sai cho đế quốc Mỹ xâm lược, làm cho tình báo CIA.

Và vì vậy, theo Hoàng Phủ Ngọc Tường, những người nầy phải bị trử khử như trử khử những con rắn độc, nếu như để chúng sống sót chúng sẽ còn gây tội ác nhiều hơn nữa trong chiến tranh?

Hoàng phủ Ngọc Tưởng nhấn mạnh với với ký giả Burchett rằng những người đó mỗi người đã giết ít nhất là 10 người của cách mạng, bây giờ giết lại chỉ có một người như vậy là quá nhẹ quá cộng bằng

1- Giáo sư Lê Văn Thi và phụ thân của ông ta bị chôn sống trên vùng xã Thủy Xuân. Giáo sư Thi là đồng nghiệp của Hoàng phủ Ngọc Tường tại trường Quốc Học. Sau nầy ông du học đậu tiến sĩ về nguyên tử lực. Về nước, ông phục vụ tại lò điện nguyên tử Đà Lạt. Mậu Thân ông ra Huế thăm nhà tại Cầu Lòn thuộc xã Thủy Xuân, quận Hương Thủy. Đám Vũ Trang Thanh Niên của nguyễn Đắc Xuân bắt ông tại nhà và dẫn đi, cụ thân sinh của giáo sư Thi chạy theo năn nỉ cũng bị chúng bắt dẫn đi luôn, và sau đó cả hai cha con đều bị chôn sống.

Xin hỏi Hoàng Phủ Ngọc Tường, giáo sư Thi và thân phụ đã giết tên “cách mạng” nào chưa?

2- Linh mục Bửu Đồng, linh mục Hoàng Ngọc Bang 73 tuổi, sư huynh Agribert, sư huynh Sylvestre, ba sư huynh dòng Thánh Tâm là thầy Bá Long, thầy Mai Thịnh, thầy Hermand, ba linh mục người Pháp là Cha Guy, Cha Urbain, cha Cresssonnier.

Xin hỏi Hoàng Phủ Ngọc Tường, các vị này đã giết tên nằm vùng nào chưa?

3- Ba bác sĩ người Đức và bà vợ của một trong 3 bác sĩ đó.

Xin hỏi Hoàng Phủ Ngọc Tường và đảng cộng sản, 4 người này đã giết tên Việt Cộng nào chưa?

4- Ba anh và một người bạn của bà Thái Hòa là Sinh viên Đại Học Huế và ông nội của 3 người đó.

5- Chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn Lê Hữu Bôi

6- Thượng nghị sĩ Trần Điền

7- Ông Võ Thành Minh

Và nhiều… ngàn người bị chôn sống nữa, những người này đã giết tên Việt Cộng nào chưa?

Hoàng Phủ Ngọc Tường nói về tàn sát Mậu Thân “sự căm thù và sự thi hành bản án như vậy là nhẹ, mà nếu như để chúng sống sót, chúng sẽ tiếp tục gây ra tội ác hơn nữa trong chiến tranh”

Sau Mậu Thân số người bị giết chết là 5327 người, và 1200 người bị mất tích, và hoàn toàn không có một ai bị cộng quân bắt trong Mậu Thân được trả về. Hơn nữa các cơ quan tình báo của VNCH cũng như đồng minh cũng không ghi nhận có một trại tù cải tạo nào của Cộng Sản trong vùng rừng núi tỉnh Thừa Thiên.

Hãy nghe một sự thật: có 428 người bị bắt trong đó có 300 thanh niên tự vệ làng Phủ Cam, số người nầy đã bị giam tại Chùa Từ Đàm, bị thẩm vấn, tra tấn đánh đập, và sau đó tất cả bị giải lên rừng. Và gần 1 năm sau họ được trả về, điều nầy tôi xác nhận Hoàng phủ Ngọc Tường nói đúng. Nhưng…

Họ được trả về với gia đình là những bộ xương tay, xương chần, xương sọ người mà lực luợng hành quân của Quân Lực VNCH và Hoa Kỳ đã phát hiện được. Khi trở về với gia đình, họ chỉ còn là 428 bộ xương được thu nhặt nằm rãi rác dọc Khe Đá Mài.

Thời gian sau Mậu Thân cộng quân bị thiệt hại quá nặng, quân số hầu như chỉ còn 10% trước khi tấn công Huế, khi rút lui không còn lương thực chết đói dọc đường, lại bị Sư Đoàn Không Kỵ Hoa Kỳ chận đánh tả tơi, phải trốn chạy tuốt tận biên giới Lào thì hỏi làm gì còn có thể thiết lập trại tù cải tạo trên rừng?

Hoàng Phủ Ngọc Tường quả thật nói láo từ đầu đến cuối.

Hãy nghe hắn nói tiếp:

“Phần lớn sự chết chóc đã xảy ra. Một khối lớn những xác chết đó là ai? Chính nhân dân bị bọn Mỹ làm chết không biết bao nhiêu trong đợt phản kích nầy. Những người nầy bị giết và được chôn trong thành phố rồi sau đó được khai quật bởi Mỹ và quay phim truyên truyền cho Mỹ”.

“Chẳng hạn, nó bỏ bom rơi vào một bệnh viện nhỏ, gần chợ Đông Ba, nó thả bom làm 200 người vừa chết vừa bị thương. Tôi đi trên con đường hẻm vào ban đêm, và tôi tưởng rằng tôi đang dẫm trên đống bùn. Thế mà khi tôi bật cái đèn pin lên, máu khắp mọi nơi. Cả một khu vực bị bỏ bom bởi bom đạn Mỹ tàn phá. Và thế rồi, những ngày cuối cùng khi chúng tôi triệt thoái ra khỏi thành phố, kẻ thù của chúng tôi đã thâu lại và đem đi chôn”.

“Lý do thứ hai, những ngày cuối cùng khi chúng tôi rút ra thì có nhiều người đã tham gia cách mạng. Những người nầy theo lực lượng cách mạng vào rừng sâu sau cuộc tần công Tết Mâu Thân và khi đó kẻ thù trở vào thành phố, chúng đã giết những người thân của những gia đình nầy, rồi đem chôn trong các hần tập thể.

Cộng thêm những tù nhân đi theo chúng tôi vào rừng bị giết hại bởi máy bay Mỹ”.

Càng nghe những lời nói của hắn, dân Huế càng kinh tởm về tư cách hèn mạt, ăn nói láo lường của tên sát nhân Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Xin hỏi Hoàng Phủ Ngọc Tường,  khi đám tàn quân của cộng sản tháo chạy ra khỏi thành phố, đám tay chân bộ hạ nằm vùng chạy theo lên núi, trong đám đó có những kẻ chủ chốt vụ tàn sát đồng bào Huế như:

Lê Văn Hảo, Tôn Thất Dương Tiềm, Lê Hữu Dũng, Nguyễn Thúc Tuân, Nguyễn Đóa, Pham Thị Xuân Quế, Nguyễn Thị Đoan Trinh, Nguyễn Hữu Vấn, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Ngọc Tường và… cả hằng trăm kẻ sát nhân nữa, theo cộng quân chạy lên rừng, thử hỏi thân nhân của những kẻ đó có ai sau Mậu Thân đã bị chính quyền VNCH giết hại rồi đem chôn tập thể hay không? xin đưa bằng chứng?

Ông phải biết rằng, miền Nam Việt Nam, Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia pháp trị, luật pháp phân minh và rõ ràng, không một ai phạm tội bắt người trái phép, giết người, mà không bị luật pháp chế tài ngay lập tức. Xin đưa một ví dụ:

Luật Pháp VNCH quy định: Quyền hạn của Trưởng Ty cảnh Sát chỉ có quyền giữ một can phạm, tình nghi, tối đa là 24 giờ. Sau 24 giờ nếu không xin lệnh Tòa án, lệnh ông Biện Lý, Ông Biện Lý có quyền tống giam Trưởng ty Cảnh sát ngay lập tức vì tội bắt người trái phép.

Trong bộ hình luật của VNCH không có một chữ nào quy định rằng những ai có liên hệ ruột thịt,  máu mủ, với những tên cộng sản đều phải bị bắt, phải bị giết.

Xin hỏi Hoàng Phủ Ngọc Tường Sau Mậu Thân gia đình ông, cha mẹ anh em ông có ai bị chúng tôi bắt, giết rồi đem chôn tập thể không? Hoặc bất kỳ thân nhân của những người tôi vừa nêu tên ở trên có gia đình nào bị hại như ông đã nói với ký giả Burchett? 

Tôi xin tác giả bức điện thư cho phép tôi được trích bức thư nầy như một phần góp vào sự thật “Hoàng Phủ Ngọc Tưởng đã chối rằng không có mặt tại Huế trong Mậu Thân 1968”.

Xin cảm tạ.   Nội dung bức điện thư như sau:

Các bạn thân mến,

ACE (Anh chị em) Y khoa Huế ở những năm 1,2,3 đều có biết Hoàng Phủ Ngọc Phan (mà LM Cao văn Luận gọi là Ngọc Phần, cha muốn tránh chữ Phân) Phan em ruột của Tường. Hai anh em Tường, Phan đều thù người quốc gia qua câu thơ của Phan viết ngay sau bìa vở của chị Tinh Châu:

Cha con giặc giết đã lâu

Con càng khôn lớn càng căm máu thù.

Tôi mượn vở của chị Tinh Châu mà phát hiện ra.

Phan thường đi La Chữ để liên lạc với Việt Cộng vào gần cuối năm 1964. Từ đó tôi không dám nói chuyện hoặc lui tới nhà của Phan mượn vở của nhau.

Về chuyện Hoàng Phủ Ngọc Tường, tôi biết được ít nhiều. Hắn là giáo sư lại đem lòng yêu học trò là em vợ của tôi. Trước khi hắn trốn vào bưng hắn đã đến nhà vợ tôi, nhắn em vợ tôi là đừng có làm sở Mỹ hoặc lấy người Mỹ.

Tết Mậu Thân 1868 cả hai anh em Phan-Tường mang súng đến nhà tôi ở Ngự Viên (Sau đổi thành Nguyễn Du) vào gặp Ba tôi.

Trước đó khi còn học chung Y Khoa 2, thỉnh thoảng Phan đến nhà tôi để mượn vở, Ba tôi xem như con cháu, thế mà lần nầy Ba tôi sợ Phan-Tường như sợ tử thần. Phan nói:

– Bác, Thằng Định mô rồi, nói hắn ra giúp băng bó cho nhân dân.

Ba tôi nói là tôi đã ở nhà vợ trong Thành Nội.

Phan nói:

– Định lấy vợ rồi à?

Phan vừa nói vừa nhìn khắp nhà, làm ba tôi gần đứng tim, vì anh tôi đang ở trên trần nhà.

Tường nói dối là đã không về Huế, vào dịp Tết Mậu Thân. Thật tiếc rằng không có bức ảnh hắn đứng trong sân nhà Ba tôi.

Về sau 1975 Tường còn đến nhà vợ tôi, khi biết em vợ tôi đã lấy chồng ở Sàigòn, hắn tiu ngỉu hỏi về tôi. Vợ tôi nói tôi đi “học tập”. Hắn giở giọng hách dịch. Phải học tập mới sáng suốt đường lối chớ.

Đúng là giọng điệu Việt Cộng.

Còn chị Phạm Thị Xuân Quế. Tôi về Huế thăm các con cháu tôi lúc chúng còn ở lại Việt Nam, tôi gặp chị Xuân Quế 2 lần, nhưng chị ấy cúi mặt. Việt Cộng mà cũng biết thẹn! Thẹn vì đồng chí của chị nhốt tù tôi đến 10 năm ròng mà lại con tra tấn tôi đến liệt cả hai tay. Chắc là Tôn Thất Kỳ đã kể lại. Tôn Thất Kỳ có đến thăm tôi ở Bệnh viện Huế khi tôi được đưa từ trại từ Bình Điền về Huế vì tôi bị tắc ruột.

Kể lại cùng các bạn nghe cho biết

Merry Christmas

Thân mến,

Định.

Bao nhiêu nhân chứng đã cả quyết rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường có mặt tại tết Mậu Thân Huế? Nhưng tất cả cũng không giá trị bằng một nhân chứng đặc biệt, đó là chính là Hoàng Phủ Ngọc Tường. Chính miệng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nói ra rằng hắn đã có mặt tại Huế tết Mậu Thân với ông Burchett trong bộ Phim Lịch sử gồm 13 tập mà Ông Burchett đã thực hiện và phỏng vấn Hoàng Phủ Ngọc Tường, và đã chiếu khắp cùng Hoa kỳ và thế giới. Bộ phim 13 tập nầy có tên là:

Viet Nam: A Television History.

Xin quý vị hãy lắng nghe lời Hoàng Phủ Ngọc Tường nói trong trích đoạn dưới đây: 

“Thí dụ là như ở một bệnh viện nhỏ ở bên phố Đông Ba thì nó đã thả 1 trái bom và đúng 200 người  vừa chết vừa bị thương ở tại chổ đó. Tôi đã đi trên những cái đường hẻm mà ban đêm, tôi tưởng là bùn thì tôi mở ra, bấm đèn lên, thì thấy toàn là máu lầy lội như vậy. Và đó là cả khu phố bị bom Mỹ đã giết, thì cái số đó nhất là trong những ngày cuối cùng thì chúng tôi rút ra và nó đã thâu lại và đem đi chôn…”

Ai đã đi trên những con đường hẻm ban đêm tết Mậu Thân? Ai nói ra lời đó?

Hoàng Phủ Ngọc Tường! Năm mươi năm trôi qua từ sau Mậu Thân 1968 cho đến nay, bao nhiêu đau thương, bao nhiêu u uẩn, xót xa trong lòng thân nhân của 5327 thường dân bị thảm sát và 1200 người bị mất tích do chính ông và các đồng chí Bác Đảng của ông là thủ phạm, mọi người đều biết điều đó, nhưng ông đã chối tội, đã nói láo trước công luận là ông không có hiện diện tại Huế, không nhúng tay vào vụ thảm sát sát đó, và ông còn ngược ngạo rằng vụ thảm sát đó là do Mỹ Ngụy gây ra rồi âm mưu đổ cho “cách mạng”. Giờ đây sự dối trá của ông đã trở thành bỉ ổi, trơ trẻn và đáng xấu hổ, đáng khinh bỉ, vì chính ông đã xác nhận:

1/Ông có mặt tại Huế, ông đi trên con đường hẻm vào ban đêm và ông tưởng rằng ông đang dẫm chân trên đống bùn. Thế mà khi ông bấm đèn lên thì thấy máu lầy lội khắp mọi nơi, máu này là do bom Mỹ giết cả khu phố Đông Ba (?!).

2/Thân nhân của 204 nạn nhân bị ông xử tội chết với giầy trắng mực đen đã khai với ủy ban điều tra đặc biệt của Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên Huế, tất đều xác nhận ông là chánh án tòa án nhân dân tại Bãi Dâu và quyết định xử tội chết cho thân nhân họ là ông, là Hoàng Phủ Ngọc Tường.

3/Email của ông Định Sinh Viên Y khoa  Huế bạn của Hoàng Phủ Ngoc Phan xác nhận rằng:

 Hoàng Phủ Ngọc Tường và Hoàng Phủ Ngoc Phan trong Tết Mậu Thân 1968, có đến nhà của ông Định tại Ngự Viên sau đổi thành đường Nguyễn Du thuộc Quân II Thị xã Huế để tìm gặp Ông Định [Xin xem phần trên]

Quá đủ để kết luận rằng chính ông có mặt Tại Huế trong suốt 22 ngày đau thương chết chóc của đồng bào Huế cũng như chính ông và đồng bọn đã là những tên đồ tể say máu người qua các sự kiện như ông tặng bản án tử hình “tên phó tỉnh trưởng”, những giải thích biện hộ rằng thay vì giết đủ 10 người theo luật công bằng thì các ông chỉ giết lại có 1, như vậy là quá nhẹ quá khoan hồng v.v

Hoàng Phủ Ngọc Tường, ông nói rằng Ông Burchett nói “công lý chẳng bao giờ được thi hành”. Không! Không phải như vậy. Ông sẽ thấy trong tương lai cận kề, rất gần “sự thật và công lý phải được thi hành” để rửa sạch oan khiên cho 5327 thường dân Huế bị chính ông và đồng bọn giết chết, và 1200 người mất tích. Bỏi vì chính tôi và thân nhân của các nạn nhân Mậu Thân Huế đã nộp hồ sơ truy tố ông và các đồng chí của ông cũng như đảng Cộng Sản Việt Nam ra tòa án quốc tế về tội ác chiến tranh và tội ác diệt chủng.

Nguyễn Phúc Liên Thành

Nguồn https://www.uybantruyto.com/2018/03/thu-goi-hoang-phu-ngoc-tuong/

 

Gió O 2023