100 năm ngày sinh (1917 - 2017)
của kịch tác gia Vũ Khắc Khoan
Nguyễn Văn Uông
Khung Trời THỤ NHÂN
Tôi vào năm I Đại học khi đă lớn tuổi so
với các bạn đồng khóa nhưng vẫn thấy là
lạ sao ấy! Lúc bấy giờ, người ta thường
bảo nhau “đại học” chỉ là “học đại”;
trường Đại học chỉ là trường Trung
học đệ Tam cấp, tiếp nối Trung học
Đệ Nhất cấp và Trung học Đệ Nhị cấp.
Miệng mồm nói thế là có ư chê bai người học
đại học cũng chẳng khá hơn ǵ người
đă qua Trung học. Người Việt Nam ta cái ǵ không
hơn ai chứ cái dè bỉu, chê bài, nói xấu người
khác th́ không ai b́ kịp. Họ cứ nghĩ họ là nhất
trên đời; mọi người khác th́ chẳng ai ra ǵ,
đếu là tầm thường cả. Không chỉ là
đại học, cả ngành giáo dục thời đó
cũng bị chê bai cho là “dân luật rừng” và bộ giáo
dục là “bộ vơ rừng”. Thế mà ngày nay, nh́n lại
các trường đại học, nh́n lại ngành giáo dục
thời đó, nhiều người tự hào, cho đó là một
giai đoạn phát triển giáo dục ở tầm cao.
Chuyện này không phải người Việt ở nước
ngoài nói ra mà ngay người trong nước cũng như
thế. Tạp chí NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN số 7-8 (114-115).2014
có số chuyên đề GIÁO DỤC MIỀN NAM VIỆT NAM
(1954 – 1975) gồm các bài viết của các trí thức cả
miền Nam và miền Bắc. Tuy có vài khác biệt trong tầm
nh́n nhưng tất cả đều nh́n nhận mặt
tích cực, tiến bộ hơn hẳn của nền giáo
dục miền Nam trong sự nghiệp giáo dục nước
nhà. Thế mới biết không phải “con cá sẩy là cá
to” mà điều muốn nói lên là nh́n nhận một sự
kiện, một vấn đề có giá trị hay không, không
phải là khi “nh́n qua” mà phải đợi thời gian
đủ để “nh́n lại” một cách khách quan, công bằng
Sở dĩ tôi nhắc lại chuyện đó là v́ khi vào học
ban Việt-Hán trường Văn khoa, viện Đại học
Đà Lạt tôi thấy khác lạ lắm. Những vị
thầy đă có tiếng tăm trên nhiều lănh vực
văn chương, có lối dạy “kỳ quặc” mà một
cậu học sinh trung học, dù thông minh đến mấy
cũng không thể nghĩ ra, nếu anh ta chưa ngồi
dưới giảng đường đại học.
Trong những vị thầy ấy, tôi chú ư nhất là thầy
Vũ Khắc Khoan rồi đến thầy Phạm
Văn Diêu. Tôi chú ư 2 thầy này v́ cách dạy của 2 thầy
khác nhau hoàn toàn mà mỗi thầy đều để lại
trong sinh viên nhiều ấn tượng đẹp, qua
đó kiến thức sinh viên học được ở
các thầy ấy căn bản, chuyên sâu, phong phú … làm nền
tảng để sinh viên tự khám phá những lănh vực
kiến thức mà họ nhắm vào.
Thầy Vũ Khắc Khoan tôi đă quen tên khi đọc các
tác phẩm “Thần tháp rùa”, “Thành Cát Tữ Hăn”…
Bây giờ được diện kiến thầy bằng
xương bằng thịt, ngồi trên bục giảng
truyền đạt khúc chiết, găy gọn, kiệm lời
những kiến thức trong tầm hiểu biết uyên
bác đến đám sinh viên, với một loại ngôn ngữ
đầm ấm, một cử chỉ mô phạm mẫu mực.
Cả lớp học không một tiếng động khi thầy
đă cất lời. Mọi người như đong kỹ
những lời thầy vào tai để chất đầy
trong năo thùy. Thầy rất ít giảng bài. Thầy chỉ
hướng dẫn sinh viên t́m hiểu, nghiên cứu rồi
cùng tŕnh bày trước lớp để trao đổi với
nhau những vấn đề thầy đặt ra. Thầy
chỉ phát biểu cuối cùng từng vấn đề
như là những kiến thức tổng hợp. Thầy
nói chậm, giọng Hà Nội rơ ràng, lôi cuốn, dễ
nghe. Sinh viên chỉ việc lắng nghe và ghi chép. Cả 4
năm Đai học Văn khoa, môn thầy phụ trách tạm
gọi là “Văn chương” v́ trong thời khóa biểu chỉ
ghi tên Giáo sư, không ghi tên môn học. Thuở ấy, nội
dung học ở môn thầy dạy bàng bạc trong các tập
sách “Lược khảo Văn học 1,2,3” của Giáo
sư Nguyễn Văn Trung.Vào năm 1, nhập môn với những
khái niệm đă được Joan Paul Sartre lư giải
trong tập sách “Qu’est ce que la littérature” (Văn chương
là ǵ) với 3 câu hỏi được đăt ra cho
người viết văn: Viết là ǵ ? Viết để
làm ǵ? Viết cho ai?. Nguyễn Văn Trung dựa vào đây,
mở rộng thêm Viết cái ǵ? Viết thế nào? Những
nội dung này, bây giờ có thể coi là môn “Lư luận
Văn học” mà sinh viên ngày nay theo học. Kỳ thi cuối
năm 1, đề thầy ra là “Thế nào là một tác phẩm
bất hủ. Phân tích một ví dụ chứng minh trong
văn học Việt Nam”. Tôi lúng túng khi làm bài thi này. Ư không
nhiều, tôi chọn truyện Kiều để phân tích chứng
minh những luận điểm làm cho truyện Kiều trở
nên bất hủ. Bài viết chỉ vẻn vẹn 5 trang giấy
thi trong 4 giờ. Không bằng ḷng lắm với bài thi này,
tưởng là kết quả tồi nhưng khi xem kết
quả, bài thi của tôi có điểm thầy cho cao hơn
so với các bạn khác. Thầy Vũ Khắc Khoan rất
keo điểm, số đông lơ mơ là dưới
trung b́nh. Điểm cao lắm cũng không ai qua khỏi
điểm 13/20. Năm 2, thầy đi sâu vào bộ môn kịch
nghệ là sở trường của thầy. Hoạt
động Văn học-Nghệ thuật của thầy
gắn chặt với bộ môn kịch nghệ. Nhiều
tác phẩm nghiên cứu về kịch; cuốn “T́m hiểu
sân khấu chèo”; công tŕnh phát hiện và giới thiệu
vở chèo Quan Âm Thị Kính, vở chèo đưa linh; các kịch
bản “Thành Cát Tư Hăn”, “Ga xép”… đă khẳng định
tên tuổi của thầy. Năm này thầy chú ư tính chất
kịch trong tác phẩm “Cung oán ngâm khúc” của Ôn Như Nguyễn
Gia Thiều để phân tích theo một trường phái kịch
đương đại thể hiện trong tác phẩm “En
attendant Godot” (Đợi Ngọc Hoàng) (Tôi chỉ nghe thầy
giảng, chưa tiếp cận được tác phẩm
này). Theo lư thuyết về kịch thầy cung cấp, nhân
vật, sự kiện diễn ra trên sân khấu chỉ là mặt
nổi dưới quyền “định đoạt” của
một nhân vật vắng mặt có thế lực chi phối
toàn bộ. Trong “Thành Cát Tư Hăn”, từ sự lo lắng
của Dương Bâng, đến sự cuồng nộ
hay ngọt ngào của Thành Cát Tư Hăn; từ sự vững
tin của viên sứ giả đến sự chán nản của
quân Mông; từ sự khôn ngoan, gan dạ của nàng Giang Minh
đến những yêu sách, mỉa mai của Sơn Ca… dù muốn
hay không cũng bị “điều động”, “chỉ huy”
vô h́nh của nhân vật vắng mặt Cổ Giả
Trường. Trong “Ga xép”, cuộc đối thoại của
những người vào ga xép chờ tàu đến đều
bị “điều động” bởi một nhân vật vắng
mặt: “người xếp ga”, sứ giả của việc
tàu đến hay không đến. Đặc biệt, cuộc
đối thoại này là cuộc tṛ chuyện của những
con người có mặt “đồng thời” trong ga xép
nhưng không xuất hiện “đồng thời” trong cuộc
tṛ chuyện. Trước hết là “Người đàn
ông”, đến “Người 40”, tiếp theo là “Ngà” (nhân vật
đă có tên), sau đó “Người 40” lộ tên là “Nghiêm”,
“Người đàn ông” lộ tên là “Đức Bảo” và
cuối cùng đột ngột xuất hiện “Người
quân nhân”. Tất cả nhân vật trong cuộc “chơi
đối thoại” này là để “đợi” tàu đến
cho dù trong ga xép, “chả ai nh́n thấy xếp ga”, “không có thời
biểu… nghĩa là tàu đến, tàu đi, không một ai
biết ǵ cả…” “Mà … vé… không bán”. Cũng không có lao công,
không có người bán hàng trong quầy nhưng mọi
người có mặt ở ga xép “không phải để
chơi, mà để… đợi” v́ họ cùng niềm tin
“Có ga tất là có tàu…”, “Những cuộc lên đường
phần nhiều chỉ được quyết định
vào phút chót. Nhiều khi bất đắc dĩ. Rất nhiều
khi bất th́nh ĺnh”. Trong “Cung oán ngâm khúc”, người cung nữ
ê chề trong pḥng tiêu, vách quế, ṃn mỏi chờ quân
vương từng đêm theo ngày tháng từ lúc được
sủng ái đến khi bị bỏ rơi, không qua mắt
một nhân vật vắng bóng “người bơ già”. Thầy
chú ư đến một ư thơ của Ôn Như Hầu:“Bơ
già đă tỏ xưa sau/ Sao không đem chuyện mà tâu Ngự
cùng” để phân tích có tính kịch trong tác phẩm này.
Người bơ già tuy là người hầu nhưng “đă tỏ
xưa sau” là sứ giả của một thứ quyền lực
vô h́nh tham dự vào, chi phối đến cuộc đời
người cung nữ.
Sinh viên Văn khoa, Khoa học, Luật… thời đó dễ
đầu vào nhưng khó đầu ra. Có Tú tài 2, nếu
không đậu vào các đại học chuyên ngành th́ ghi danh
vào các trường trên. Lúc ấy, ngoài 3 đại học
công lập Sài G̣n, Huế, Cần Thơ c̣n có các đại
học tư như Đại học Đà Lạt, Đai
học Minh Đức của Công giáo, Đại học Vạn
Hạnh của Phật giáo…Phân biệt là Công, Tư, Phật
giáo, Công giáo chỉ là dựa vào tính chất “người
đầu tư”. Chương tŕnh, nội dung đào tạo
không bị chi phối bởi người đầu
tư. Chất lượng mới chính là thang đánh giá kết
quả của từng trường. Ở ban Việt-Hán
trường Văn khoa viện Đại học Đà Lạt
khóa tôi, năm 1 gần 200 sinh viên, ngồi kín cả nhà Hội
Hữu th́ qua năm 2 c̣n lại gần trăm, ngồi
đủ trong nhà Minh Thành 3. Những năm 3, 4 sinh viên
rơi rụng dần, chỉ c̣n 30, 20 ngồi lọt trong
nhà Minh Thành 2, Minh Thành 1. Những lúc ra chơi, thỉnh thoảng
thầy ra gặp sinh viên ở chiếc giả kiều Thệ
Thủy cạnh cây Móng Ḅ lá xanh, hoa đỏ rất đậm
và cây Mai Anh Đào rủ tán hoa xuống con suối giả
có mấy ḥn giả sơn đầu nhà Minh Thành. Thầy
ăn mặc tươm tất, sang trọng, veston complé rất
đúng mốt. Sinh viên chưa bao giờ thấy thầy
cười. cùng lắm là chỉ thấy cái môi thầy có vẻ
nhếch lên. Những lúc ấy biết là thầy vừa ư.
Thầy hút thuốc nhiều, có thể nói là liên tục. Một
lần thầy cùng lớp ra chơi tận đồi Cù.
Trong lớp có anh Hưng chụp ảnh đẹp và luôn
mang theo máy ảnh bên ḿnh. Anh xin thầy chụp vài tấm ảnh.
Thầy cũng “điệu” lắm nghe! Đề nghị
của anh nói ra khi thầy vừa châm điếu thuốc
nhưng thầy cứ chần chừ măi, đến khi
điếu thuốc cháy gần hết, thầy mới cho
anh Hưng bấm máy. Tấm ảnh này sau đó đă
được tạp chí Văn in làm trang b́a cho một số
chuyên đề về Vũ Khắc Khoan. Tôi đă chớp
lại bức h́nh này gởi cho một người bạn
cùng lớp và chị đă đưa lên làm ảnh đại
của trang Fecebook Việt Văn Dalat. Thầy thích những
sinh viên chịu khó t́m ṭi, nghiên cứu; khuyến khích sinh
viên có suy nghĩ độc lập và dễ dàng chấp nhận
những ư trái ngược với thầy với một
điều kiện là có lư luận vũng chắc. Cách “học
thuộc” và “trả bài” là không có trong môn học của thầy.
Ngược lại, thầy Phạm Văn Diêu lại có
cách dạy khác hẳn thầy Vũ Khắc Khoan. Môn thầy
dạy là “Văn chương Việt Nam”. Năm 1, thầy
dạy văn học dân gian nhưng thầy chỉ xoáy sâu
vào thể loại ca dao t́nh cảm. Đề thi cuối
năm môn của thầy là “Tâm t́nh người nông thôn qua
câu ḥ, tiếng hát đồng ruộng”. Năm 2, thầy dạy
văn học viết nhưng thầy chỉ xoáy sâu vào truyện
Kiều. Đề thi cuối năm 2 thầy ra là “Chị
em vườn Thúy”. Năm 3, thầy dạy văn học
chữ Hán nhưng thầy xoáy nhiều vào thơ Băng Hồ
Trần Nguyên Đán. Năm 4, thầy dạy văn học
Việt Nam hiện đại. Thầy cười nhiều,
nói nhiều, tự đề cao ḿnh cũng nhiều, nhất
là qua 2 tập sách ghi tác giả Phạm Văn Diêu: Văn học
Việt Nam, Việt Nam Văn học giảng b́nh. Vào lớp,
thầy ngồi lên bục giảng, ổn định lớp
học, “điểm mặt” sinh viên như một ông thầy
trung học, vài câu bông đùa, cười giỡn xong là giảng
bài. Thầy chỉ nói và sinh viên chỉ nghe và ghi. Cũng chẳng
cần ghi nhiều v́ trong sách thầy đă có rồi. Phải
để ư ông thầy dài ḍng này mà làm bài thi. Phải theo ư
ông giảng, càng nhiều càng tốt, không được
trái ư. Phải viết dài, ngắn lắm cũng kéo ra đủ
10 trang giấy thi. Làm bài thi với thầy càng dài th́ càng nhiều
điểm. Phải có giọng văn bóng bẩy. Phải
dùng từ thật kêu. Câu văn phải có ngữ điệu…
Nếu không đáp ứng yêu cầu đó th́ không thể có
điểm cao. Cậu sinh viên nào đă vào “tầm ngắm”
của thầy th́ không c̣n có gan để cựa quậy
trược mặt thầy. Vào lớp không thấy anh X…
th́: “Hôm nay không thấy anh mặt như mưu sĩ…”. Anh
sinh viên xứ biển làm thầy mất hứng khi đang
giảng bài th́ thầy phê ngay một câu: “Thứ chữ
nghĩa, văn chương không bằng cái xương cá
ṃi…”. Với nữ sinh viên th́ thầy ưu ái hết mực.
Sáng nào từ nhà Năng Tĩnh, nơi các thầy tá túc, xuống
lớp cũng có 2,3 nường theo thầy lẻo đẻo
cười nói. Phải nói là thầy giảng ca dao phong t́nh
và truyện Kiều th́ tôi chưa nghe ai giảng hay hơn.
Một điều nữa là thầy say mê văn
chương thật sự và truyền lại niềm
đa mê này cho lớp lớp sinh viên theo học với thầy.
Khung trời Thụ Nhân của tôi c̣n nhiều thầy, nhiều
bạn nữa không dịp được nói ra đây. Qua
khỏi “ngă 5 đại học”, sải bước lên một
con dốc ngắn là đến cổng trường. Một
khung trời Thụ Nhân đằm thắm, văn minh bao
trùm cả không gian núi đồi c̣n bóng dáng màu xanh nguyên
sơ của rừng thông đại ngàn. Tên trường
“Thụ Nhân” nhắn nhủ sinh viên tôn chỉ của nhà
trường dựa vào một câu danh ngôn của Quản Trọng:
“Nhất niên chi kế, mạc như thụ cốc. Thập
niên chi kế, mạc như thụ mộc. Bách niên chi kế,
mạc như thụ nhân” (Kế một năm, không ǵ bằng
trồng lúa. Kế mười năm, không ǵ bằng trồng
cây. Kế trăm năm, không ǵ bằng trồng người).
Vào cổng trường qua khỏi nhà Đôn Hóa, mé phải
là nhà Ḥa Lạc, lên nữa là nhà Minh Thành, qua tận mé trái
sân sau là nhà Hội Hữu. Khu Năng Tĩnh dưới gác
chuông ở sân sau của nhà Thư viện… Đó là những
nơi quen thuộc của sinh viên văn khoa. Ngoài ra c̣n các
nhà Tri Nhất, nhà Kiêm Ái… đều là những cảnh thân
quen trong tầm mắt người sinh viên viện Đại
học Đà Lạt. Tên các giảng đường
cũng được rút ra từ những câu danh ngôn của
các hiền nhân, nêu lên tôn chỉ của nhà trường, của
việc học tập. Lấy thí dụ như giảng
đường Hội Hữu được trích từ một
câu trong Luận Ngữ: “Quân tử dĩ văn hội hữu;
dĩ hữu tác nhân” (Người quân tử dùng văn
chương để tập hợp bạn hữu; dùng bạn
hữu để để làm việc nhân nghĩa). Những
mái ngói đỏ giảng đường lấp lánh dưới
tán lá thông xanh. Nắng vàng lung linh thắp sáng muôn triệu hạt
sương lóng lánh trên từng ngọn cỏ. Những hàng
tùng chóp nhọn như những ngọn bút xanh vươn
cao như muốn viết chữ lên trời. Những cụm
thông x̣e tán phủ kín như ôm ấp những thế hệ
mới lớn lên. Không khí cảo thơm văn hiến thấm
đẫm trong từng bụi cây, ngọn cỏ. Một
chốn học tập như mơ, như mộng giữa
cơi đời mà chúng tôi đă có may mắn được
trải qua.
Nguyễn Văn Uông
© gio-o.com 2017