"tập thơ này tôi nghĩ nó chính là nét phác thảo

một giai đoạn lịch sử, một tâm trạng, một cách

giải bày của tôi

cả của những người cùng

thời trong giai đoạn ấy.

thơ chính là tình yêu

trong chúng ta đã mở rộng"

(Trích thư riêng của KH gửi 3/2012)

 

 

THƠ

Khoa Hữu

( trích từ tập thơ LỬA )

 

 

 

Ải Bắc

 

 

Biên cương rừng giới bạt ngàn phủ

trùng trùng núi đứng giáp đầu mây

đường lên ải bắc dọc ngang lộ

muôn dấu chân qua bạt lối này.

 

Ta nghe tiếng vọng triền miên lũng

đỉnh đá khua hay vực gió dồn

bụi cát mù mù vó ngựa động

lòng ta, mốc cắm vết suy vong.

 

Ta lên ải bắc hỏi tin nhạn

hỏi thời gian tìm nhạn môn mây

thủa loạn ngôn trời đất cũng loạn

đất cắt, trời chia, loạn cỏ cây.

 

Ngọn suối nước khe dòng lịch sử

nghe đâu đây gọi tiếng mơ hồ

cung kiếm mấy đời đi giữ đất

chiến bào da ngựa bọc biên khu.

 

Nhúng bàn tay xuống trường giang lớn

năm ngón như chạm mũi cọc chôn

nhớ theo sóng lớp Bạch Đằng lộng

bóng chinh phu đoạt dáo trên thuyền.

 

Ta đi tìm lại đoạn đường tận

xưa, Nguyễn Trãi ngồi ngun ngút thù

người đi chân xích vai gông nặng

kẻ quay về mài bút bình ngô.

 

Có con nhạn trắng tung trời hót

bay liệng giữa vòng nhớ ải quan

có gã dân giã già cô độc

ngoái lại trăm năm đã mỏi

 

 

 

 

trái tim người qua sông Cửu Long

 

 

Ta về, một tấc lòng xuyên Việt

trách gì sông nước cuộc bể dâu

ta về vẫn hai bờ tâm huyết

người nhớ sông, sông cũng bạc đầu.

 

Ta vui từng bước chân ta bước

ta vui úp mặt trong bàn tay

ta vui sao lòng ta thổn thức

như sông cuồn cuộn sóng hồn này.

 

Mười năm về đời bên bờ bắc

mười năm về nhớ xiết như sông

đợi chuyến phà sang, gọi ký ức

nặng lòng ta chiếc bắc giữa dòng.

 

Ai vẽ mùa xuân chen sắc hạ

tháng ngày trong trí nhớ như tranh

ôi yêu dấu nồng nàn như cỏ

yêu dấu như giọt nước trầm mình.

 

Và lớp lớp thuyền đi ngang dọc

lớp lớp người thủa ấy về đâu

ta hiểu mỗi đời là hạt thóc

gieo mầm cho đất một mùa sau.

 

Kè đá thức trắng đêm sương phủ

huyền hoặc trăng trên đá mài gươm

bỏ núi xa rừng trăng viễn xứ

đá sắt son lòng đá ngậm ngàn.

 

Ta về, hồi tưởng sông truyền thuyết

chín con rồng ẩn tích về đây

chọn đất thiêng gửi dấu móng vuốt

qua ngàn năm sót chút hình hài.

 

Ta về, tưởng giữa dòng trống giục

sóng thét, bầy voi trận xuất binh

cuồn cuộn đi như ngọn nước xiết

bóng mây dồn theo bóng Quang Trung.

 

Hai bờ chật quân ngồi nghỉ khát

dưới mặt trời kết mảng qua sông

bạt vía, kinh hồn lân bang giặc

về phương nam thần thoại phương đông.

 

Thời niên thiếu cha cho áo vải

áo mẹ may thành giáp long bào

nước có nguồn cây từ cội ấy

ơn sâu, nghĩa cả nặng ngàn sau…

 

Ta về, mưa nắng như trời đất

sông nước chờ ta - dẫu mười năm

ví ta còn sót chút nước mắt …

nói làm sao chuyện của cõi lòng?

 

Ta về nhật nguyệt soi vầng trán

Lịch sử còn lưu dấu cổ kim.

 

 

 

 

tử lộ

 

 

Ta về đây bụi đường dong duổi

ngọn gió mùa vuốt mái da nhăn

người lính cũ thành tên tù mới

cỏ cây ơi còn nhớ gì chăng.

 

Điếu thuốc đốt tâm can dị diệt

vết thời gian khói ám vàng tay

ngày tháng tận chiêm bao cũng tận

chỗ dung thân chỉ trái tim này.

 

Cuối bãi đầu sông dòng nước rút

đánh thức ta đau nỗi nghìn thu

chợt mất chợt còn như lẽ thật

chữ tử sinh âu cũng điên rồ.

 

Đất rã thịt xương trời sạch máu

chuyến đời đi, nào, kể từ đâu

đứt ruột ta bầm gan tháng sáu

mềm thân ta dìm mắt đêm sâu.

 

Đồng đội ta mấy người khuất mặt

giống ma hờn quỷ khóc chờ đây

mưa tạt run lòng ta u uất

chừng nghe viên đạn mới phanh thây.

 

Độ ấy em về trong hoang tưởng

áo tiểu thư phong kín chiều tà

ta gửi mắt, gửi môi, gửi tóc

bứt cỏ vàng thay một cành hoa.

 

Điểm gở ấy báo tin định mệnh

ta biết tìm đâu lỗi đất trời

giữa đồng gió còn xanh hẹn ước

ngôi mộ nằm trắng toát mầu vôi.

 

Ta nguyền rủa ta sao chẳng chết

cớ gì thiên hạ giết em đi

ta áo trận súng tay loạn nước

em yêu là phản nghịch cớ gì.

 

Hai mươi năm nhìn ra tử lộ

ta khóc dùm ta nỗi chán chường

bầy ngựa cũ già rong tứ xứ

cắm đầu, không ngoảnh lại bắc phương.

 

 


MỤC LỤC

 

Lời cảm ơn từ Việt Nam / 4

 

THƠ ĐỐT KHÔNG CHÁY / 5

 

Triều đại mới / 6

Một trang Tân Ước / 7

Thư Sàigòn / 9

Phút tưởng niệm An Lộc / 11

Ta là pho tượng dựng phía ngoài công viên / 14

Sàigòn giao thừa 1999 / 16

Trâm cỏ-thi / 18

Hoa hồng trắng / 19

Nghi lễ / 22

Ải Bắc / 23

Trái tim người qua sông Cửu Long / 25

Chị tôi / 28

Tử lộ / 33

Hồng Hạc / 35

Sông Đông Êm Đềm / 41

Tháng giêng xanh / 49

Ta biển ngàn thu / 51

Tưởng niệm nhà văn Chu Tử / 52

Tưởng niệm nhà văn Nguyễn Mạnh Côn / 53

Mảnh mặt trời Quê Ngoại / 54

Ba cái chết một nỗi buồn / 59

Về một cựu chiến binh / 61

Nhớ Cao Xuân Huy / 62

Buổi sáng của những ngày dài / 63

Một mùa đông / 64

Cái chết của một tượng đá / 69

Đêm phi trường Tân Sơn Nhất / 71

Sự tích của đá và người / 73

Quán hoa vàng / 74

Bài thơ vô danh cho một người chép sử / 76

 

THƠ VIẾT DƯỚI THẬP GIÁ / 80

 

Bản tình ca năm 2000 / 81

Đêm thương khó / 89

Từ máng cỏđến đồi Gogotha / 90

Qua mấy mi ền Giáo Đường / 91

Lời Thánh Nhật / 92

Buổi cầu nguyện cuối cùng /93

 

 

 

Thơ KHOA HỮU

Tranh bìa: Nguyễn Trọng Khôi

Trình bày: Trần Hoài Thư

THƯ ẤN QUÁN xuất bản

Mùa Hè 2012

 

Chịu trách nhiệm xuất bản

Nguyễn Thanh Châu

 

LIÊN LẠC:

NGUYỄN THANH CHÂU

2617.W.OCOTILLO Rd. UNIT 1

PHOENIX, AZ 85017

Email: chauthanhnguyen2011@yahoo.com

 

 

http://www.gio-o.com/KhoaHuu.html

 

 

© gio-o.com 2012