Đoàn Nhã Văn
CHỮ NGHĨA BẬT RA TỪ NHỮNG VẾT SẸO ĐỜI
đọc truyện của Lâm Chương
Vài
dòng về Lâm Chương: Ông sinh năm 1942 tại Gò Dầu Hạ Tây Ninh. Cựu sĩ quan quân lực VNCH. Ở
tù từ 1975-1985. Vuợt biển năm 1987, định cư tại Boston, Massachusetts Hoa Kỳ.
Tác phẩm đã xuất bản: Loài Cây Nhớ Gió (thơ, Việt Nam); Đoạn Đường Hốt Tất Liệt
(tập truyện, Hoa Kỳ); Lò Cừ (Tập truyện, Hoa Kỳ); Gió về phố biển (Truyện vừa,
Hoa Kỳ) và Đi giữa bầy thú dữ (Truyện vừa, Hoa Kỳ)
Trên bàn viết lữ thứ của mình, Lâm Chương bắt đầu lại những trang viết khi bóng
chiều đã ngã trên vai. Nói bắt đầu lại, bởi vì trước kia, ở trong nước, ông làm
thơ. Một chặng đường bầm dập đã qua, một khoảng thời gian nát vỡ tình người đã
trải, khởi điểm từ con số không, nhưng lòng lại giục giã, lên đường. Một lên đường
rất cô đơn nhưng đầy khẳng khái, tạo nên những tiếng vang tốt.
Trong cõi viết mới của mình, Lâm chương đã khởi đi bằng truyện ngắn. Rồi từ
truyện ngắn, ông viết truyện vừa, mà tiêu biểu là “Gió về phố biển”
và “Đi giữa bầy thú dữ”. Rồi, càng về sau này, ông càng “ưa” thể
loại “đoản văn”. Đẩy ngòi bút vào cả ba thể loại nhưng lại cùng phảng phất một
điều: gom góp những vụn vỡ của đời sống, thu nhặt những mất mát trong cõi nhân
sinh, và soi rọi nó bằng một tấm lòng của một người tha thiết với quê hương, quặn
đau theo những vết sẹo của cuộc đời.
Lâm Chương là người lính thực thụ, đối diện với sống chết từng phút từng giây.
Đi lính, nhưng không hề nuôi thù hận. Đi lính, như một sự sắp đặt của tạo hóa,
không tránh khỏi. Mũi tên đã khởi đi từ chiếc cung. Chỉ có phóng tới, chứ không
thể thu về. Đó là thế chẳng đặng đừng của những người trai trẻ trong thời loạn
ly của đất nước. Giữa trận tiền, dù có muốn dừng lại sự bắn giết lẫn nhau cũng
chẳng được. Ông viết: “Những thằng đi trận của cả hai phe đều ở vào cái thế
của tên giác đấu. Mình không giết nó, nó giết mình. Đâu cần chi phải hận thù?”.
“Đâu cần chi phải hận thù?” Nghe, thật đơn giản, nhưng tự đáy lòng, không
phải ai vào cuộc cũng mang một nỗi niềm như thế.
Sau tháng 4 1975, quân nhân, công chức chính quyền miền Nam, được lệnh tập
trung mười ngày. Mười ngày, rồi mười tháng, rồi mười năm, rồi nhiều năm tiếp
theo nữa. Đó là giai đoạn tang thương. Không phải chỉ có Lâm Chương, cũng không
phải chỉ có những người lính cũ, mà là cả miền Nam bị nhốt vào nhà tù lớn. Người
khác gọi là “cải tạo”, nhưng với ông tù là tù! Làm sao cải tạo được. Mà cải tạo
cái gì? Viết về những ngày tháng như thế, Lâm Chương đã dùng chất liệu thật, để
tạo nên những trang văn nói lên cái bi thảm của tù tội giữa núi rừng Việt Bắc rất
lôi cuốn qua nhiều truyện ngắn. Cái bi thảm đó, có trải qua mới thấm cái cùng
khổ của những người bại trận với: đói, rét, gông, cùm, bệnh, tật, và lao động
khổ sai. Đọc những trang viết của ông ông trong giai đoạn này, tôi lại nhớ đến
Cung Trầm Tưởng, một người lính, một nhà thơ, một người tù, một kẻ lưu vong, từng
có những vần thơ tù làm ray rứt người đọc:
“Áo tù thẫm máu đôi vai
Bàn chân nứa chém, vành tai gió lùa
Ngó tay bỗng thấy già nua
Cứa êm thân xác mấy mùa thu qua
Môi cằn, má hóp thịt da
Ngô vơi miệng chén, canh pha nước bùn
Đêm nằm ruột rỗng vai run
Đầu kề tiếng suối, chân đùn bóng đêm”
(Nguyện Cầu Mùa Thu)
Vết sẹo của tù đày đã lành miệng theo thời gian, nên LC đã viết về giai đoạn
này với một tâm thế hết sức bình thản mà mà không hề hằn học. Không phải ông
không đau về cuộc chiến vừa qua; không phải ông không tiếc nuối về những tháng
ngày tuổi trẻ bị giam cầm nơi rừng rú; không hẳn ông đã giác ngộ triết lý nhà
Phật; và cũng chẳng phải ông có cái tâm lớn như Bồ Tát để quên đi những trận
đòn dã man đã giáng xuống thân thể gầy còm của những người tù, nhưng, theo tôi,
ông “hiểu”. Cái quan trọng nằm ở chỗ ấy. Như một con đinh ốc nằm trong một guồng
máy, làm sao một con đinh ốc đã bị khóa chặc, lại có thể ngưng nỗi một guồng
máy đang vận hành với một vận tốc chóng mặt. Xa hơn nữa, bao nhiêu năm đã trôi
qua, bao nhiêu mùa trăng khuyết lại tròn, bao nhiêu nước từ nguồn ra biển, người
Việt Nam bị đầu độc bởi hận thù đằng sau những chiếc bánh vẽ, thì hằn học, oán
hờn nằm trên những trang chữ lẻ loi, có lay chuyển được điều gì? Dĩ nhiên, ông
cũng không hề “quên”. Làm sao quên được những mồ hôi và máu đã thấm vào mạch đất?
Làm sao quên được những những nấm mộ sơ sài của bạn bè sau cuộc chiến, nơi rừng
thiêng, nước độc. Không, không hề. Ở ông, nhớ nhưng không bóc trần, biết nên
không truy vấn, và, hiểu nên không biểu lộ thù hận trên những trang chữ của
mình.
Không những thế, với ông, những kẻ “bên kia” vẫn có dăm người, với chút tình
người còn xót lại. Ông không ngần ngại nói lên những điều ấy, dựng lại những
hoàn cảnh đầy nhân tính, chẳng hạn như truyện “Cận kề biên giới tử sinh”
hay truyện “Những ngày mắc cạn”. Nghĩ về một gã quản giáo đã nới tay
trong những trận đòn, và cũng giúp đỡ ông trong những cơn thập tử nhất sinh,
ông viết:
“Cũng vẫn con người ấy, nhưng bây giờ, tôi thấy dưới lớp băng đông giá, còn
tiềm ẩn cái hơi ấm tình người. Nhìn qua bên kia hàng rào trại, cây rừng đang
xanh tốt mùa mưa. Lòng tôi cũng bắt đầu xanh lại. Trong khi chờ người bạn tù nấu
cháo, tôi nằm xuống chiếc sạp nứa. Có tiếng mọt kẽo kẹt nghiến gỗ trong vách.
Trước kia, đêm trằn trọc trong trại cải tạo, nghe tiếng mọt, lòng tôi ray rứt
như nghe đời mình đang bị gặm nhắm hao mòn dần theo những tháng ngày lưu đày.
Bây giờ, cũng tiếng mọt, nhưng tôi lại nghe như tiếng đời sinh động.” (Những
ngày mắc cạn)
Ông nhìn rõ “Khi biết mình đã hiểu lầm bữa cơm bồi dưỡng, thành bữa cơm ân
huệ cuối cùng cho tử tội, bao nhiêu nỗi buồn rầu trong tôi vụt tan biến. Và cơ
thể đang ê ẩm rã rời, bỗng khỏe lại như vừa được uống một liều thuốc hồi sinh.
(…)…tôi nghiệm ra rằng, người Cộng Sản dù ác độc gian trá, nhưng họ cũng là con
người, thì một lúc hiếm hoi nào đó, họ cũng biết nói thật và cũng động lòng trắc
ẩn” (Cận kề biên giới tử sinh)
Thời gian ra khỏi tù cũng gian nan, nhọc nhằn không kém. Đó là quãng thời gian
đi giữa quê hương như một người xa lạ, “bị quê hương ruồng bỏ, giống nói
khinh” (Thơ Vũ Hoàng Chương). Hiếm người dám chứa chấp những kẻ về từ tù
ngục. Kiếm được một việc làm, mà làm gì cũng được, là trăm đắng, ngàn cay. Họ
làm đủ mọi thứ để kiếm sống. Họ làm muôn nghề để nuôi thân. Họ sống trong cảnh
“Anh về cụt mất hai tay / Còn nghe thiên hạ chê bai đủ điều” (Thơ Trần
Nghi Hoàng). Cái cụt mất hai tay, không là cụt mất theo nghĩa đen, mà là cụt mất
hai tay trong một thân thể lành lặn. Lành lặn, nhưng ăn bám cuộc đời. Lành lặn
nhưng vô dụng. Đó là bước đường cùng của những tấm thân gầy còm về từ tù ngục.
Đó là nỗi đau cụt mất hai tay trong một thân thể lành lặn. Mỗi truyện ngắn nằm
trong mạch này, của LC, đều phảng phất những nỗi đau như thế, từ những nhân vật
xưng “tôi”.
Lâm Chương viết về những người ra tù, bị giạt về các vùng quê khá rõ nét. Nhà
quê vốn đã nghèo. Cái giàu ở họ, mà ai cũng nhìn thấy, đó là cái giàu về cơ cực.
Tuy vậy, những người về từ tù ngục, bị giạt ra chốn quê mùa này, càng cơ cực
hơn. Viết về ruộng đồng, thôn dã, người đọc cảm được cái “thế” của người
nông dân trong những ngày mùa. Đó là thế mặt nhìn đất, lưng phơi giữa trời.
Theo chân những người đào giếng nơi những thị trấn khô cằn, người đọc thấy từng
giọt mồ hôi của họ đổ xuống theo từng nhát xuổng. Bám theo những người làm
công, khuân vác, ta cảm được sức nặng đè lên những đôi vai gầy, thiếu ăn, mất
ngủ.
Viết về thôn quê, Lâm Chương như con cá lội trong nước, tha hồ. Chữ nghĩa ông về
những vùng đất này cũng mộc mạc, đơn sơ như lòng người dân chất phác, hiền hòa.
Viết về núi rừng, văn chương ông tự nhiên, tuôn chảy. Không những thế, người đọc
còn học được nhiều thứ, biết thêm nhiều phong tục, ngay trên những trang sách ấy.
Tuy nhiên, phải nói thêm rằng, ở thế mạnh của mình, ông vẫn chưa lột tả đến kỳ
cùng những điều còn ẩn chứa ở những vùng thôn dã đó.
Định cư tại Mỹ, gia tài họ (những nhân vật của LC) là con số không. Vì thế, họ
cố gắng bương chải để sống. Họ cố gắng lao động cực nhọc để nuôi thân, để tạo một
chỗ đứng cho thế hệ thứ hai. Và xa hơn, lòng của họ luôn ngóng về bên kia biển
lớn. Nỗi chịu đựng của họ cũng lớn không kém những gì họ đã chịu đựng bên quê
nhà. LC còn dựng nên nhiều cảnh sống, sau khi trở lại thăm quê hương. Những
nhân vật của ông va chạm nhiều thứ “trái tai gai mắt”. Và dường như, mỗi lần về
lại quê hương cũng là mỗi lần cõng thêm nhiều nỗi buồn trên lưng, khi qua lại Mỹ.
Đây là thời gian mà ông đẩy ngòi bút vào thể loại “đoản văn”. Sự chuyển hướng
này cũng tạo nên sự thay đổi trong phong cách nghệ thuật. Những trang viết càng
về sau, người ta càng thấy chữ nghĩa của LC như hướng về sự đơn giản. Nó làm
cho ta có cảm tưởng như tác giả đã bỏ lại những cồng kềnh, đã gạt ra những ôm đồm
không cần thiết. Đơn giản trong dựng truyện, đơn giản trong cấu trúc câu, và
đơn giản trong cách dùng chữ. Hiếm thấy những chữ lạ, cầu kỳ. Cái đơn giản ấy
chạm vào cái sần sùi của đời sống, đụng cái thô nhám của nhân gian, và rờ được
cái trần trụi của tình đời. Trong cái đơn giản ấy, người đọc bắt gặp những chi
tiết đắc địa. Sự thay đổi trong nghệ thuật đó đã hình thành một phong cách. Dẫu
vậy, ông đã cài đặt nhiều phần triết lý trong đối thoại, của nhiều nhân vật, từ
nhiều khuôn mẫu khác nhau, trong đời. Nhiều chỗ, những câu đối thoại chưa làm nổi
bật được cá tính của nhân vật.
Thiển nghĩ, cũng cần nói thêm về hai truyện vừa: “Đi giữa bầy thú dữ”
cùng “Gió về phố biển”. Đây là hai truyện vừa khá lôi cuốn.
Riêng truyện “Đi giữa bầy thú dữ” mang tầm vóc của tiểu thuyết, nếu ông khai
triển nó rộng hơn, trên bề diện nhân vật, cũng như trên bề diện không gian. Hai
truyện này đều chứa đựng những phần đời tang thương, bầm dập. Và cũng ở đó, hé
lộ nhiều hơn tư tưởng của nhà văn.
Hai truyện vừa cùng nhắc về một nơi chốn: Nha Trang. Nếu ở “Gió về phố biển”,
Nha trang là nơi ẩn náu, dung thân, nơi có những bàn tay chìa ra, vực dậy, thì
trong “Đi giữa bầy thú dữ”, Nha trang là nơi thọ nạn, dã tâm lọc lừa giấu đằng
sau mặt nạ thương người. Cùng một thành phố, lúc lâm nạn, thời tuổi trẻ, của
“tôi”, đã được người người sẵn lòng giúp đỡ. Cũng cùng thành phố, sau những
tháng ngày tù tội, trở về, tìm đường vượt thoát, “tôi” lại bị người ta lường gạt
đến tận đường cùng. Cái gì làm nên sự khác nhau ấy? Một giai đoạn những năm
1960’s đầy tình người. Và, một giai đoạn những năm 1980’s đầy nghi kị, toan
tính, sẵn sàng hại nhau vì những phần vật chất nhỏ nhoi. Nếu đặt hai tác phẩm
trong ngữ cảnh liên văn bản, người đọc sẽ dấy lên nhiều câu hỏi. Nhưng
một câu hỏi quan trọng không thể thiếu: Có phải thời gian hai mươi năm
đã làm một xã hội băng rã về đạo đức? Và nguồn gốc của sự băng
hoại này?
Tình người, ở xứ mình tìm mãi không ra, nhưng như một phép lạ, tình người đã cứu
vớt “tôi” khỏi rơi xuống những tầng địa ngục ngay trên xứ người, nơi đất Chùa
Tháp. Cho nên, đoạn kết của “Đi giữa bầy thú dữ” là một đoạn kết
hay. Ở đó, oán hờn đã lắng xuống, thù hận đã trôi đi, những vết sẹo ngày xưa đã
lành miệng. Cái duy nhất còn lại là: làm sao tìm lại được một cánh chim trong
trời đất bao la. Cánh chim đó là hình ảnh thật đẹp của người từng bị gọi là
“con đĩ ngựa”. Cánh chim mang tên Nga, một người phụ nữ lưu lạc trên xứ người,
hy sinh thân xác để cứu một gia đình bị nạn, đưa họ rời nơi địa ngục để về chốn
thiên đường. Giúp, mà không mong người khác biết. Cứu vớt, mà không nghỉ đến việc
trả ơn. Cái gì rồi cũng qua đi. Chỉ có tình người ở lại. Tư tưởng của tác giả nằm
ở những dòng chữ cuối cùng, mang lại một ấn tượng lớn cho độc giả.
Nếu phải chọn một hình ảnh cho Lâm Chương, tôi hình dung ra một gã nông dân kiệm
lời, ít nói, nhưng lại rất miệt mài trên cánh đồng chữ nghĩa của mình. Trên
cánh đồng đó, Lâm Chương đưa những mảnh đời vụn vỡ, những nỗi đau hun hút, những
vết thương tướm máu, vào trang sách, truyền cho nó những hơi thở, biến thành những
“cuộc sống” khác. Đó là bản lãnh nghệ thuật. Tuy vậy, đọc ông, người đọc vẫn có
cảm tưởng rằng, vì mãi mê đi tìm những mảnh vỡ đó, nên cõi viết của ông chưa
khai triển những chủ đề lớn đúng mức, chưa đẩy mình vào những chặng đường dài,
thử thách.
Chữ nghĩa của Lâm Chương, nói cho cùng, là chữ nghĩa bật ra từ những vết thương
đã lành miệng, của chính mình, và của tha nhân.
Đoàn Nhã Văn
10/2008